Thúc đẩy vai trò doanh nhân trong hoạch định chính sách

Phát huy vai trò Doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế

Đội ngũ doanh nhân bao gồm những người lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh khác. Trong những năm qua, đội ngũ này đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Đến nay, cả nước đã có gần 5 triệu doanh nhân hoạt động trong các doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh.

Doanh nhân Việt Nam xuất thân từ nhiều tầng lớp xã hội, chủ yếu từ công nhân, nông dân và trí thức, phần lớn trưởng thành trong chế độ mới, nhiều người là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Là người lãnh đạo, tổ chức quản lý doanh nghiệp. Riêng khu vực doanh nghiệp đã đóng góp trên 60% GDP, 70% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút trên 7,4 triệu lao động, chiếm 16,3% lực lượng lao động của toàn xã hội. Nếu tính cả khu vực của hộ kinh doanh thì mức đóng góp của các doanh nhân cho nền kinh tế còn cao hơn nhiều.

Tuy vậy cũng phải nghiêm túc nhìn nhận một thực tế là: số lượng và chất lượng đội ngũ doanh nhân chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Quy mô doanh nghiệp nước ta còn nhỏ bé, kém xa so với khu vực và thế giới, hiệu quả hoạt động chưa cao. Nhiều doanh nhân thiếu kiến thức về pháp luật và kinh doanh, thiếu kinh nghiệm quản lý và tính chuyên nghiệp, còn bị động trong cạnh tranh và hội nhập. Đội ngũ doanh nhân chưa xây dựng được văn hóa kinh doanh chung, chưa liên kết chặt chẽ trong hoạt động.

Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, cần xác định đội ngũ doanh nhân Việt Nam là đại diện cho sức sản xuất mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định để thực hiện mục tiêu chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh là bước đột phá góp phần thúc đẩy phát triển đất nước, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế của Việt Nam trong thời đại mới.

Để thúc đẩy phát triển đội ngũ doanh nhân, theo chúng tôi, cần thực hiện những nhiệm vụ và giải pháp sau :

Một là, thống nhất nhận thức về vai trò của đội ngũ doanh nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khuyến khích tinh thần kinh doanh trong xã hội, tôn vinh doanh nhân,  khẳng định sự cống hiến và bảo hộ thu nhập hợp pháp của doanh nhân. Xác định đúng quyền lợi, nghĩa vụ của doanh nhân đối với công cuộc phát triển đất nước.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng và thuận lợi để doanh nhân phát huy ý chí kinh doanh. Công khai minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, các chính sách hỗ trợ, để bảo đảm quyền lợi đầu tư và giảm rủi ro kinh doanh cho doanh nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền kinh doanh, tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh. Xây dựng pháp luật cho việc tạo lập đồng bộ các thị trường, nhất là thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường khoa học – công nghệ. Hoàn thiện pháp luật về tài chính công, cải cách pháp luật thuế. Hoàn thiện pháp luật về tài nguyên môi trường, bảo vệ người tiêu dùng. Nâng cao hiệu lực xét xử của tòa án, khuyến khích giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.

Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế đối thoại, tham vấn ý kiến của doanh nhân trong quá trình ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật. Tiếp tục cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm các cơ quan và người thi hành công vụ hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nhân.

Ba là, xây dựng hệ thống biện pháp hỗ trợ doanh nhân tham gia khu vực kinh doanh chính thức, mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp, chú trọng phát triển doanh nhân ở khu vực nông thôn.

Thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, quan tâm hỗ trợ khu vực hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp và đăng ký đầy đủ theo Luật Doanh nghiệp. Khuyến khích liên kết, mua bán và sáp nhập doanh nghiệp và áp dụng các biện pháp phù hợp để tăng nhanh số lượng doanh nghiệp có quy mô vừa, thúc đẩy hình thành và phát triển một số doanh nghiệp lớn, đủ sức thực hiện vai trò dẫn dắt, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thâm nhập thị trường thế giới thông qua các chuỗi sản xuất và cung ứng.

Triển khai các biện pháp hỗ trợ doanh nhân xúc tiến thương mại, đầu tư, nghiên cứu phát triển, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm dịch vụ. Cải thiện khả năng tiếp cận tài chính, công nghệ và thị trường của doanh nhân.

Bốn là, tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo và bồi dưỡng doanh nhân. Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình quốc gia về đào tạo doanh nhân, từng bước tiếp cận chuẩn mực quốc tế trong đào tạo quản trị kinh doanh.

Triển khai rộng khắp chương trình đào tạo về khởi sự doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nhân được trang bị những kiến thức cần thiết về kinh doanh, về pháp luật và trách nhiệm xã hội. Tổ chức thường xuyên các khóa đào tạo nâng cao và cập nhật kiến thức cho doanh nhân.

Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo về kinh tế và quản trị kinh doanh ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, ý thức trách nhiệm, sự trung thực, tinh thần hợp tác, ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng trong giáo dục công dân và đào tạo doanh nhân.

Năm là, đề cao văn hóa kinh doanh và trách nhiệm xã hội của doanh nhân, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Xây dựng những chuẩn mực của doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới các phẩm chất quan trọng: có lòng yêu nước, có tinh thần dân tộc, có khát vọng kinh doanh, có trách nhiệm với người lao động, với cộng đồng và xã hội, có văn hóa và tuân thủ pháp luật. Doanh nhân thân thiện với môi trường, thân ái với cộng đồng, thân thuộc với người lao động.

Sáu là, phát huy vai trò của hệ thống tổ chức đại diện của cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân. Tiếp tục xây dựng và củng cố Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thành một tổ chức chính trị – xã hội vững mạnh của đội ngũ doanh nhân. Mở rộng và liên kết hệ thống hiệp hội doanh nghiệp trong cả nước, triển khai đồng thời hai nhiệm vụ đại diện cho các doanh nghiệp và giới sử dụng lao động, xúc tiến hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong lĩnh vực quan hệ lao động, xây dựng quan hệ lao động thuận hòa; tăng cường quan hệ đối thoại, hợp tác giữa các cơ quan chính quyền với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các hiệp hội doanh nghiệp.

Bảy là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển đội ngũ doanh nhân. Xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược phát triển đội ngũ doanh nhân. Thể chế hóa đường lối chính sách đối với doanh nhân của Đảng bằng các chương trình hành động cụ thể.

Triển khai công tác phát triển Đảng, phấn đấu có tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp, ngành nghề giữ vị trí quan trọng của nền kinh tế. Nâng cao giác ngộ chính trị cho người sử dụng lao động và người lao động, bảo đảm cho hoạt động của doanh nghiệp, doanh nhân theo đúng chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Nghiên cứu việc bồi dưỡng và kết nạp những doanh nhân ưu tú thuộc mọi thành phần kinh tế, đủ tiêu chuẩn vào Đảng, trước mắt có thể thực hiện thí điểm ở một số địa phương, hiệp hội doanh nghiệp. Tăng cường đại diện của doanh nhân trong cơ cấu của các cơ quan thuộc hệ thống chính trị.

Hi vọng với những nhiệm vụ và giải pháp đồng bộ trên, cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân  Việt Nam sẽ có bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, xứng đáng với vai trò là người lính trong  thời bình.

Quy trình hoạch định chính sách công? Những nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng chính sách công?

 

Hoạch định chính sách công được xem là bước khởi đầu có tác động lớn đến toàn bộ quá trình chính sách; là quá trình xây dựng, hình thành nên chính sách công, từ việc phát hiện vấn đề chính sách, phân tích đánh giá, lựa chọn các phương án chính sách cho tới khi thông qua chính sách.

https://www.medac.gov.my/admin/files/med/image/portal/NEP2030-Final.pdf

https://www.oecd-ilibrary.org/sites/fff33142-en/index.html?itemId=/content/component/fff33142-en

https://unctad.org/system/files/official-document/webdiaeed2015d1_en.pdf

Mục lục bài viết

1. Khái quát về hoạch định chính sách công

Hoạch định chính sách công được xem là bước khởi đầu có tác động lớn đến toàn bộ quá trình chính sách; là quá trình xây dựng, hình thành nên chính sách công, từ việc phát hiện vấn đề chính sách, phân tích đánh giá, lựa chọn các phương án chính sách cho tới khi thông qua chính sách.

Cho đến nay, xung quanh các bước của quá trình hoạch định chính sách công vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính sách công được thừa nhận phổ biến hiện nay gồm các bước cơ bản sau: (i) thiết lập nghị trình chính sách; (ii) xây dựng và đề xuất phương án chính sách; (iii) hợp pháp hóa chính sách hay ban hành chính sách.

2. Thiết lập nghị trình chính sách:

Một trong những nhiệm vụ và chức năng quan trọng của chính sách công đó là giải quyết các vấn đề xã hội. Vì thế, vấn đề xã hội là nguồn gốc để thiết lập nghị trình chính sách. Trong xã hội hiện đại, thường xuất hiện nhiều vấn đề xã hội cùng lúc, vấn đề xã hội này xuất hiện kế tiếp vấn đề xã hội khác. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, không phải tất cả các vấn đề xã hội đều được giải quyết thông qua công cụ chính sách. Chỉ những vấn đề xã hội mà người làm chính sách nhận thấy cần thông qua công cụ chính sách để giải quyết thì mới được xem là vấn đề chính sách. Điểm cốt yếu ở bước này là làm thế nào để xác định “đúng” và “trúng” vấn đề xã hội cần giải quyết thông qua chính sách. Điều đó có nghĩa là cần xác định được vấn đề xã hội cần thiết phải ban hành chính sách để giải quyết, hạn chế được tình trạng có những vấn đề xã hội bức xúc nhưng người làm chính sách lại chậm trễ trong việc đưa vào nghị trình chính sách, hoặc có những vấn đề xã hội chưa thật sự bức thiết nhưng lại được ưu tiên đưa vào nghị trình chính sách. Theo quan điểm của James E. Anderson, việc một vấn đề xã hội nào đó được đưa vào nghị trình chính sách và trở thành vấn đề chính sách liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau, như vai trò của người lãnh đạo chính trị, sự kiện thu hút sự quan tâm của nhiều người, phản ánh và thái độ của người dân, phản ánh của truyền thông đại chúng. Trên thực tế, việc vấn đề xã hội được đưa vào nghị trình chính sách phụ thuộc vào vai trò của nhiều chủ thể khác nhau, như lãnh tụ chính trị, đảng cầm quyền, cơ quan dân cử, cơ quan hành chính, các đoàn thể chính trị – xã hội, các chuyên gia và nhà khoa học, công chúng, truyền thông đại chúng, sự xuất hiện của các sự kiện. Tuy liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau, song trong xã hội dân chủ, chính sách công với tư cách “đầu ra” của hệ thống chính trị nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, thì việc xác định nghị trình chính sách cũng cần phải dựa vào “đầu vào” là các nhu cầu và phản ánh của xã hội. Vì vậy, yêu cầu cốt lõi ở đây là các chủ thể có liên quan cần thông qua các phương thức nhau để xác định đúng và “trúng” vấn đề xã hội để đưa vào nghị trình chính sách. Đây là một phương diện cơ bản thuộc về tính trách nhiệm và tính đáp ứng của quản trị nhà nước với tư cách một trong những đặc trưng cơ bản của “quản trị tốt”.

3. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách:

Sau khi xác định được vấn đề xã hội nào đó, cần ban hành chính sách để giải quyết thì vấn đề xã hội trở thành vấn đề chính sách. Do đó, nhiệm vụ tiếp theo của bước này là, trên cơ sở phân tích vấn đề của chính sách để xây dựng và hình thành các phương án chính sách. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách là quá trình trên cơ sở nghiên cứu, phân tích đối với vấn đề chính sách để đề xuất biện pháp hoặc phương án chính sách tương ứng. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách gắn liền với nhiều nội dung, như phân tích vấn đề chính sách, xác định mục tiêu mà chính sách cần đạt được, thiết kế phương án, đánh giá đối với từng phương án và lựa chọn phương án phù hợp nhất. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách có ba đặc trưng sau:

– Mục đích của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách là giải quyết vấn đề chính sách cụ thể. Sự tồn tại khách quan của vấn đề chính sách là tiền đề và cơ sở của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách. Tính chất, phạm vi và mức độ của vấn đề chính sách quyết định nội dung chủ yếu của phương án chính sách;

– Nội dung cơ bản của xây dựng phương án chính sách là thiết kế phương án và lựa chọn phương án. Việc thiết kế phương án chính sách chính là nhằm giải quyết vấn đề chính sách; đó là việc dựa trên các phương pháp định tính và định lượng để đề xuất ra các phương án chính sách khác nhau. Trên cơ sở các phương án chính sách đó, người thiết kế chính sách thông qua việc phân tích, so sánh và luận chứng một cách đầy đủ để lựa chọn một phương án chính sách có khả năng thực hiện được mục tiêu của chính sách một cách tốt nhất. Khi thiết kế phương án chính sách, cần quan tâm đến mục tiêu chính sách. Mục tiêu chính sách rõ ràng hay không sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng phương án chính sách cũng như ảnh hưởng đến việc thực thi. Việc đánh giá và xác định phương án chính sách ưu tiên cần quan tâm phân tích và luận chứng tính khả thi của phương án chính sách (tính khả thi về chính trị, kinh tế, kỹ thuật, hành chính, pháp luật…); đồng thời cần đánh giá sự ảnh hưởng của nhân tố tương lai đối với chính sách;

– Xây dựng và đề xuất phương án chính sách vừa là một hoạt động nghiên cứu, vừa là một hành vi chính trị. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách là một quá trình hoạt động rất phức tạp. Một mặt, cần phát huy vai trò và sự tham gia của các nhà khoa học, tuân thủ các nguyên tắc, phương pháp khoa học để phân tích vấn đề chính sách, xác định mục tiêu chính sách, thiết kế phương án, đánh giá phương án và lựa chọn phương án phù hợp. Mặt khác, do chính sách liên quan đến việc điều chỉnh và phân phối lợi ích của những đối tượng liên quan trong xã hội, do đó cần coi trọng và đảm bảo sự tham gia của những đối tượng liên quan.

>> Xem thêm:  Chính sách công là gì ? Vai trò của chính sách công ?

4. Hợp pháp hóa chính sách:

Hợp pháp hóa chính sách hay ban hành chính sách được hiểu là cá nhân và cơ quan có thẩm quyền trên cơ sở quy định của pháp luật tiến hành đánh giá, thẩm tra để thông qua hoặc phê chuẩn phương án chính sách. Chẳng hạn, trên cơ sở thẩm định, thẩm tra và thảo luận đối với dự án luật do cơ quan có liên quan đệ trình, Quốc hội biểu quyết thông qua dự án luật đó. Tất cả dự thảo chính sách đều phải thông qua bước hợp pháp hóa này mới có hiệu lực thi hành. Nhìn chung, ở mỗi nước, pháp luật quy định khác nhau về trình tự, thủ tục và thẩm quyền của cơ quan và cá nhân trong việc thông qua một dự thảo chính sách, pháp luật. Ở nước ta, quy trình lập pháp được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hợp pháp hóa hay ban hành chính sách có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạch định chính sách công nói riêng và trong chu trình chính sách công nói chung, thể hiện ở chỗ: (i) hợp pháp hóa chính sách vừa là bước đặc biệt quan trọng trong hoạch định chính sách, vừa là tiền đề để thực thi chính sách. Nói cách khác, không có bước này thì không thể tiến hành thực hiện chính sách; (ii) hợp pháp hóa chính sách cũng là một yêu cầu, mắt khâu không thể thiếu để đảm bảo tính khoa học, tính dân chủ và tính hợp pháp của chính sách, là nguyên tắc không thể thiếu để thực hiện quản trị quốc gia theo pháp luật. Thông thường, chính sách được ban hành theo chế độ thủ trưởng và chế độ tập thể. Pháp luật quy định rõ trình tự ban hành chính sách theo chế độ tập thể và chế độ thủ trưởng. Tuy có những yêu cầu khác nhau đối với chính sách ban hành theo chế độ tập thể và chế độ thủ trưởng, song có một số lưu ý ở bước này đó là: (i) đảm bảo để chính sách được thông qua theo đúng trình tự theo quy định của pháp luật; (ii) đảm bảo nguyên tắc dân chủ, có nghĩa là đảm bảo việc thảo luận, tranh luận một cách công khai, dân chủ trong quá trình thẩm định dự thảo chính sách (đối với chính sách được ban hành thông qua chế độ tập thể) và tranh thủ ý kiến mang tính độc lập của các chuyên gia, tổ chức tư vấn đối với dự thảo chính sách (đối với chính sách được ban hành theo chế độ thủ trưởng).

5. Những nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng chính sách công

Những nguyên tắc cơ bản mà việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách cần tuân thủ là:

– Nguyên tắc đầy đủ về thông tin: Thông tin là cơ sở và căn cứ của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách; do đó, người thiết kế chính sách cần thông qua nhiều phương thức khác nhau để có được thông tin toàn diện và chính xác;

– Nguyên tắc hệ thống: Khi xây dựng và đề xuất phương án chính sách, người thiết kế chính sách cần xuất phát từ quan điểm hệ thống để phân tích tổng hợp đối với phương án chính sách, cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chỉnh thể và lợi ích bộ phận, giữa điều kiện bên trong và điều kiện bên ngoài, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa mục tiêu chủ yếu và mục tiêu thứ yếu. Đặc biệt, nguyên tắc hệ thống còn yêu cầu, người thiết kế chính sách cần thấy được mối quan hệ và sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chính sách, hạn chế tình trạng xung đột chính sách;

– Nguyên tắc dự báo khoa học: Có nghĩa là việc thiết kế và đề xuất phương án chính sách cần đặt nó trong xu thế vận động và nhu cầu của tương lai;

– Nguyên tắc khả thi: Có nghĩa là việc đề xuất và thiết kế phương án chính sách cần phân tích một cách toàn diện để xác định có khả thi hay không, nhất là với điều kiện và nguồn lực hiện tại, có thực hiện được hay không, hiệu quả có đảm bảo hay không;

– Nguyên tắc hợp pháp: Có nghĩa là việc thiết kế và đề xuất phương án chính sách cần phù hợp với pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế;

– Nguyên tắc dân chủ: Có nghĩa là, việc thiết kế và đề xuất bất cứ phương án chính sách nào cần phải xem liệu có lợi cho lợi ích công hay không, có phản ánh thật sự nhu cầu và lợi ích của người dân hay không. Nguyên tắc dân chủ còn yêu cầu việc thiết kế phương án chính sách cần công khai, minh bạch, cần đảm bảo sự tham gia của những đối tượng liên quan đối với quá trình này, nhất là phát huy vai trò và sự tham gia của các tổ chức tư vấn chính sách. Việc thực hiện tốt nguyên tắc dân chủ, nhất là đảm bảo tính công khai, minh bạch và sự tham gia của người dân có tác dụng quan trọng đối với việc thực hiện các nguyên tắc nói trên.

>> Xem thêm:  Phân tích các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ?

Cần nhìn nhận, đánh giá khách quan về vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới

Thứ hai, 15/11/2021

 (Mặt trận) – Doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều có vị trí, vai trò, đóng góp to lớn, quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đồng thời, doanh nghiệp và doanh nhân trong từng thành phần kinh tế cũng có những hạn chế, yếu kém nhất định. Bài viết nêu các giải pháp để xây dựng, phát triển, phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh mới. 

Doanh nhân và vai trò của doanh nhân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới

Trên cơ sở những chuyển biến tích cực trong đời sống thực tiễn của đất nước, từ việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI (năm 1986) của Đảng với tinh thần thừa nhận kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang xây dựng cơ chế quản lý có kế hoạch theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, Đại hội VII (năm 1991) của Đảng đặt vấn đề: xây dựng đội ngũ trí thức, nhà kinh doanh, người quản lý, chuyên gia công nghệ và công nhân lành nghề để đảm đương, gánh vác nhiệm vụ trước mắt và chuẩn bị tốt cho đất nước và thế hệ trẻ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI1. Tiếp đó, Đại hội VIII (năm 1996), Đảng sử dụng khái niệm “nhà doanh nghiệp”, “nhà kinh doanh” với chủ trương: “Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ǎn lâu dài”2. Đại hội IX (năm 2001), Đảng nêu chủ trương rất sáng rõ và sâu sắc: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế… Tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc, xoá bỏ mọi trở lực để khơi dậy nguồn lực to lớn trong dân, cổ vũ các nhà kinh doanh và mọi người dân ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước3. Ngày 20/9/2004 Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 990/QĐ-TTg lấy ngày 13/10 hằng năm làm Ngày Doanh nhân Việt Nam. Văn kiện Đại hội X (năm 2006) dùng thuật ngữ “doanh nhân” và khẳng định doanh nhân là bộ phận cấu thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội XI (năm 2011) sử dụng khái niệm “đội ngũ doanh nhân” với định hướng, chủ trương: “Phát huy tiềm năng và vai trò tích cực của đội ngũ doanh nhân trong phát triển sản xuất kinh doanh; mở rộng đầu tư trong nước và nước ngoài; tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, hàng hoá, dịch vụ cho đất nước và xuất khẩu; đóng góp cho ngân sách nhà nước; nâng cao chất lượng sản phẩm; tạo dựng và giữ gìn thương hiệu hàng hoá Việt Nam; đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”4. Ngày 9/12/2011 Bộ chính trị khóa XI ra Nghị quyết số 09-NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Hiến pháp 2013, tại khoản 3 Điều 51 khẳng định: Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.

Qua hơn 35 năm đổi mới, đội ngũ doanh nhân Việt Nam không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Trước năm 1991 (khi Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 và Luật Công ty năm 1990 chưa có hiệu lực) chỉ có khoảng 5.000 doanh nghiệp. Hiện nay, với gần 800.000 doanh nghiệp và hơn 5,4 triệu hộ kinh doanh, theo đó, số lượng doanh nhân tham gia lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh lên đến hàng triệu người5. Trong thời kỳ đổi mới, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đã có những đóng góp to lớn, quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên nhiều phương diện, trước hết là về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Về kinh tế, với việc đầu tư sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, khai thác, sử dụng các nguồn lực, phát triển lực lượng sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng của thị trường trong nước và thế giới, doanh nhân Việt Nam chính là lực lượng xung kích, chủ lực trong việc thay đổi cơ cấu kinh tế quốc dân, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa độc lập, tự chủ, hội nhập quốc tế góp phần quan trọng đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Khu vực doanh nghiệp đóng góp trên 60% GDP, khoảng 70% thu ngân sách nhà nước6.

Về chính trị, doanh nhân không chỉ tham gia với tư cách công dân, doanh nghiệp thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, nhất là về lĩnh vực kinh tế, mà họ còn tham gia ngày càng hiệu quả vào đời sống chính trị của các địa phương, của đất nước trong việc xây dựng, góp ý, giám sát, phản biện, quyết định chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chính quyền địa phương với tư cách là các tổ chức xã hội – nghề nghiệp, thành viên của các tổ chức chính trị – xã hội, là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

Về xã hội, doanh nhân là lực lượng chủ lực, tiên phong tạo ra nhiều công ăn việc làm, sinh kế cho người lao động, qua đó, góp phần xóa đói, giảm nghèo. Sự ra đời, phát triển, lớn mạnh của doanh nhân góp phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển cơ cấu xã hội và quan hệ xã hội mới, trong đó, doanh nhân là một bộ phận cấu thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc; doanh nhân là mắt xích không thể thiếu trong các liên kết, hợp tác kinh tế, xã hội giữa nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà máy, nhà khoa học, nhà ngân hàng, nhà nông. Doanh nhân, doanh nghiệp không chỉ góp phần quan trọng trong việc tạo ra tăng trưởng kinh tế, gia tăng ngân sách – điều kiện, tiền đề vật chất để thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm phát triển kinh tế gắn liền với phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội mà doanh nghiệp, doanh nhân còn trực tiếp tham gia thực hiện nhiều hoạt động xã hội, từ thiện, trong đó có hoạt động đền ơn, đáp nghĩa.

Về văn hóa, doanh nhân Việt Nam hiện nay kết tinh và tiêu biểu cho ý chí, nghị lực nỗ lực xóa đói, thoát nghèo, vươn lên làm giàu của dân tộc Việt Nam. Sự phát triển, lớn mạnh của đội ngũ doanh nhân đã tạo ra những phẩm chất, giá trị văn hóa, lối sống mới: tự lập, tự chủ, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với khó khăn, dám chấp nhận rủi ro, có chí làm giàu, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội, đất nước. Doanh nhân được xã hội ngưỡng mộ, tôn vinh; họ như là “anh hùng thời đại”, nhân vật trung tâm của thời kỳ phát triển mới của đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Doanh nhân giàu có, thành đạt trở thành mục tiêu phấn đấu của không ít người, nhất là giới trẻ; họ nuôi khát vọng, ý chí làm giàu, dấn thân, lập thân lập nghiệp, cống hiến bằng con đường kinh doanh.

Đại đa số doanh nghiệp, hầu hết doanh nhân làm ăn chân chính, bản lĩnh, sáng tạo đang nỗ lực vươn mình vượt qua khó khăn, thách thức để đổi mới, phát triển, nâng tầm góp phần hiện thực hóa khát vọng vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; họ xem trách nhiệm với người lao động, với đối tác, với khách hàng, với người tiêu dùng và với nhà nước, cộng đồng xã hội là những yếu tố đem lại chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và làm nên thương hiệu của doanh nghiệp. Qua sàng lọc khắc nghiệt của thị trường đa số doanh nghiệp phát triển, đa số doanh nhân thành công, qua đó đóng góp to lớn trên nhiều phương diện cho sự thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những yếu kém, hạn chế của doanh nghiệp, doanh nhân và pháp luật cũng đã và đang xử lý những doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn phi pháp, thiếu trách nhiệm xã hội. Những hạn chế, yếu kém đó do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân sâu xa từ điều kiện kinh tế – xã hội nông nghiệp, chưa có truyền thống kinh doanh; có nguyên nhân do sự mới mẻ, hấp dẫn của kinh tế thị trường cùng với những yếu tố tự phát, tiêu cực chứa đựng rủi ro của nó; có nguyên nhân từ hạn chế về tri thức, trình độ văn hóa, năng lực kinh doanh, ý thức pháp luật của doanh nhân; có nguyên nhân từ những bất cập của luật pháp và công tác quản lý nhà nước… Cả lịch sử và logic đều cho thấy, với một nền kinh tế mới chuyển đổi, kể cả một nền kinh tế thị trường “hoàn hảo”, “đầy đủ” với lịch sử phát triển hàng trăm năm thì vẫn không tránh khỏi những hạn chế, bất cập ít nhiều tương tự.

Thực tế cho thấy, vai trò, đóng góp to lớn không thể phủ nhận của khối doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân trong nhiều lĩnh vực đời sống, trước hết là lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, dẫu “một người lo bằng cả kho người làm” thì cũng không phải doanh nhân tự mình, riêng mình bằng lao động quản lý, điều hành có thể tạo ra đóng góp ấy, mà đó là thành quả tổng hợp được tạo ra không chỉ bằng lao động vật chất trực tiếp có tính chất quyết định của hàng triệu công nhân, lao động, mà còn bằng sự hỗ trợ, định hướng, dẫn đường của Đảng, Nhà nước thông qua việc xây dựng chính sách, thể chế phát triển kinh tế – xã hội, các hoạt động đối ngoại, xúc tiến đầu tư, thương mại, đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại…

Về kinh tế tư nhân gắn liền với đội ngũ doanh nhân trong khu vực kinh tế này (với sự phát triển, lớn mạnh và những đóng góp to lớn đối với đất nước: chiếm tỉ trọng 39 – 40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động xã hội, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội), Đảng ta khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế”7. Tuy nhiên, không thể vì vai trò quan trọng đó mà xem nhẹ doanh nghiệp nhà nước, phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và cổ vũ cho tư nhân hóa. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, việc tư nhân hóa là vấn đề rất phức tạp, có thành công nhưng rủi ro, thất bại cũng rất nhiều. Do đó, cả về thực tế và định hướng, Đảng đã rất đúng đắn khi khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ”8.

Về doanh nghiệp nhà nước9 và doanh nhân trong khu vực này, trong nhiều năm qua phải đối mặt với những khó khăn, yếu kém, nhất là tình trạng tham nhũng, làm ăn thua lỗ gây thất thoát nhiều tiền bạc, tài sản của nhà nước, của nhân dân và tổn hại nghiêm trọng uy tín của doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước. Tuy nhiên, những năm gần đây, cùng với sự điều chỉnh, đổi mới chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về doanh nghiệp nhà nước, kể cả việc kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, doanh nhân yếu kém, tham nhũng, các doanh nghiệp nhà nước và đội ngũ doanh nhân trong khu vực này đã có đổi mới, vượt qua khó khăn, thích ứng với kinh tế thị trường và bước đầu đạt những kết quả quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước và doanh nhân trong khu vực này đã có những đóng góp quan trọng trên nhiều phương diện góp phần để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân: đóng góp khoảng 28% cho tăng trưởng, tạo việc làm cho 1,2 triệu lao động (8,3%); giữ vai trò chi phối trong một số ngành, lĩnh vực nền tảng cho tăng trưởng, phát triển như năng lượng, tài chính, tín dụng, ngân hàng, viễn thông, xuất khẩu lương thực, hàng không…; đi đầu trong đầu tư vào những vùng khó khăn, những lĩnh vực đầu tư có tỷ suất lợi nhuận thấp; và đồng thời với nhiệm vụ kinh doanh, các doanh nghiệp nhà nước thực hiện nhiệm vụ chính trị – xã hội, hỗ trợ cộng đồng, tham gia thực hiện an sinh xã hội, bảo đảm ổn định chính trị xã hội, an ninh, quốc phòng, chủ quyền quốc gia. Hiện nay, trong bối cảnh thực hiện “mục tiêu kép”, vừa chống đại dịch Covid-19 vừa phát triển kinh tế – xã hội, doanh nhân trong khu vực doanh nghiệp nhà nước tiếp tục khẳng định vai trò to lớn góp phần để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.

Giải pháp tiếp tục xây dựng, phát triển và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay

Cách đây 10 năm, ngày 9/12/2011, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế với 7 nhóm phương hướng, nhiệm vụ: 1) Nâng cao nhận thức về vai trò của đội ngũ doanh nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; 2) Tạo môi trường sản xuất, kinh doanh bình đẳng, thuận lợi cho doanh nhân; 3) Hỗ trợ doanh nhân mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, khuyến khích phát triển doanh nhân khu vực nông thôn; 4) Quan tâm, tạo chuyển biến trong đào tạo và bồi dưỡng doanh nhân; 5) Đề cao đạo đức, văn hoá kinh doanh, trách nhiệm xã hội, tinh thần dân tộc của đội ngũ doanh nhân, xây dựng quan hệ lao động hài hòa; 6) Phát huy vai trò của các tổ chức đại diện của cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân; 7) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân. Với tư duy, tầm nhìn chiến lược đúng đắn, về cơ bản, 7 nhóm phương hướng, nhiệm vụ trên đây vẫn nguyên giá trị chỉ đạo, định hướng cho việc triển khai các giải pháp cụ thể để tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

Qua hơn 35 năm đổi mới, tình hình đất nước, vị thế, tiềm lực, uy tín của đất nước khác nhiều so với 10 năm trước. Bối cảnh quốc quốc tế cũng có những đổi thay to lớn, nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Sự đan xen thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức trong bối cảnh mới đặt ra những vấn đề mới, yêu cầu mới, nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kể cả việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam cả về số lượng và chất lượng. Với tinh thần đó, Đại hội XIII của Đảng khẳng định chủ trương: “Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi. Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho doanh nhân khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng. Khuyến khích doanh nhân thực hiện trách nhiệm xã hội và tham gia phát triển xã hội. Tôn vinh, khen thưởng kịp thời, xứng đáng những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”10…

Triển khai thực hiện chủ trương đó cần nhiều giải pháp cụ thể, đồng bộ. Trong đó, cần chú trọng 3 giải pháp đột phá.

Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện môi trường, thể chế đầu tư, phát triển đất nước nhanh, bền vững, trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là hệ thống chính sách, pháp luật tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng bảo vệ, khuyến khích doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn chân chính, đổi mới sáng tạo; ngăn ngừa, thải loại doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn phi pháp.

Thứ hai, tổ chức thực hiện tốt chủ trương, chính sách, pháp luật; khẳng định, bảo vệ, tạo điều kiện, khuyến khích, vinh danh, khen thưởng xứng đáng những doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn chân chính, có đóng góp lớn đối với xã hội, đất nước; kịp thời ngăn chặn, xử lý nghiêm minh những doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn phi pháp gây thiệt hại cho đất nước, cộng đồng xã hội, người lao động, người sử dụng hàng hóa, dịch vụ.

Thứ ba, để thực hiện có hiệu quả hai đột phá trên, điện kiện đầu tiên và xuyên suốt là xã hội và bản thân đội ngũ doanh nhân phải nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc về doanh nhân, về vị trí, vai trò của doanh nhân trong công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Khơi dậy, khuyến khích, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, khát vọng làm giàu chân chính trong xã hội. Nhận thức đúng, sâu sắc về quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nhân, sự gắn bó hữu cơ giữa mục tiêu, khát vọng làm giàu chân chính với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và doanh nhân. Khắc phục những nhận thức phiến diện, định kiến; phê phán những nhận thức sai trái, lệch lạc về các thành phần kinh tế, xã hội, trong đó có các bộ phận doanh nhân trong các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

Nguyễn Anh Tuấn

TS, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Chú thích:

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 51, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr 189.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 55, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr 376.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 60, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr 243.
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 242.
  5. Xem Doanh nhân Việt Nam – Thành quả của công cuộc đổi mới, tại trang: https://dangcongsan.vn/kinh-te/doanh-nhan-viet-nam-thanh-qua-cua-cong-cuoc-doi-moi-565492.html.
  6. Nguyễn Chí Hải: Nhận diện đội ngũ doanh nhân Việt Nam thế kỷ XXI, tại trang: https://doanhnhansaigon.vn/chan-dung-doanh-nhan/nhan-dien-doi-ngu-doanh-nhan-viet-nam-the-ky-xxi-1096743.html.

7,8. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

  1. Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước được cấu thành bởi: 1) Bộ phận doanh nghiệp gồm các doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và doanh nghiệp mà Nhà nước nắm cổ phần hoặc phần vốn chi phối; 2) Bộ phận phi doanh nghiệp: các tài sản thuộc sở hữu nhà nước, đất đai, rừng, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia…
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr. 168.

ĐƯA NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG VÀO CUỘC SỐNG

Thứ Hai, 11/10/2021 12:53′(GMT+7)

Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh mới

(TG) – Là đại diện cho sức sản xuất mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong công cuộc đổi mới, đội ngũ doanh nhân Việt Nam đã và đang trở thành lực lượng xung kích, đóng góp không nhỏ vào những thành tựu của đất nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam lần thứ VI

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: doanh nhân là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và “Công – Thương cứu quốc đoàn” là một thành viên của Mặt trận Việt Minh. Trong suốt tiến trình cách mạng, đội ngũ doanh nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh, phát triển, đã và đang trở thành lực lượng xung kích trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Công cuộc đổi mới ở nước ta đang bước vào giai đoạn mới trong bối cảnh tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, mang lại nhiều cơ hội, thuận lợi, nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức cho phát triển nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam. Đội ngũ doanh nhân là đại diện cho sức sản xuất mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển đội ngũ doanh nhân là bước đột phá góp phần phát triển kinh tế – xã hội, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế của Việt Nam trong thời kỳ mới. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi”(1). Để phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam đáp ứng với mục tiêu, yêu cầu đó trong bối cảnh mới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:

Một làtiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi cho doanh nghiệp.

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu có tính đột phá cả trước mắt và cơ bản lâu dài. Chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự bảo đảm chính trị – pháp lý, là điều kiện, môi trường tiên quyết để hoạt động của doanh nhân và doanh nghiệp là một thể thống nhất. Không thể có đội ngũ doanh nhân phát triển nếu như điều kiện chính trị – pháp lý, môi trường kinh doanh thiếu khoa học, xơ cứng, trì trệ, xa rời thực tiễn sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Mặt khác, chỉ khi các doanh nghiệp hoạt động tốt, có hiệu quả thì đội ngũ doanh nhân mới trưởng thành về mọi mặt.

Không thể có đội ngũ doanh nhân phát triển nếu như điều kiện chính trị – pháp lý, môi trường kinh doanh thiếu khoa học, xơ cứng, trì trệ, xa rời thực tiễn sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường.

Thực tiễn đổi mới cho thấy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, còn những hạn chế nhất định: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển…”(2).

Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh

Để phát huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế và thích ứng với bối cảnh mới, Đảng ta chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Huy động, sử dụng các nguồn lực thực hiện theo cơ chế thị trường. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành”(3). Đồng thời, “Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho doanh nhân khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng”(4). Theo đó, cần xây dựng chiến lược, hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, trọng tâm là đất, nước và khoáng sản. Xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách và cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu, dự báo, cảnh báo thiên tai, ô nhiễm và thảm họa môi trường, dịch bệnh. Ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường. Chủ động, tích cực hợp tác quốc tế trong việc chia sẻ thông tin, phối hợp bảo đảm an ninh sinh thái, an ninh môi trường, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng. Công khai minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển. Nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền kinh doanh, tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh. Tiếp tục cải cách hành chính, bảo đảm các cơ quan và người thi hành công vụ hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nhân. Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế đối thoại, tham vấn ý kiến của doanh nhân trong quá trình ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật.

Hai là, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân. 

Đảng ta khẳng định: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài”(5); đồng thời, “đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc,…”(6). Phát triển đội ngũ doanh nhân trên cơ sở phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao được đào tạo bài bản, có tri thức, tính sáng tạo vượt trội, được trải nghiệm trong thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp với cơ chế thị trường, thích ứng với sự phát triển cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ nguồn lực ấy, mới sản sinh ra những doanh nhân có phẩm chất, trí tuệ, năng lực, bản lĩnh trên cơ sở nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước, cũng như từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp. Bởi vậy, cần xây dựng và triển khai thực hiện chương trình quốc gia về đào tạo doanh nhân, từng bước tiếp cận chuẩn mực quốc tế. Ðổi mới chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo về kinh tế và quản trị kinh doanh ở các học viện, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trong đó, chú trọng giáo dục, rèn luyện và hun đúc cho doanh nhân “tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ”, ý thức thượng tôn pháp luật, có trách nhiệm với sự phát triển xã hội, tính trung thực, tinh thần hợp tác, ý thức cộng đồng cao. Cập nhật, bổ sung hệ thống tri thức mới về quản trị, kinh doanh trong điều kiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, hệ thống giáo trình, tài liệu nghiên cứu, học tập; đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật và môi trường đào tạo, bồi dưỡng hiện đại. Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng ở các cơ sở giáo dục, đào tạo quốc gia với đào tạo, bồi dưỡng tại các tập đoàn doanh nghiệp và doanh nghiệp; giữa đào tạo, bồi dưỡng trong nước với đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài; giữa đào tạo và tự đào tạo để phát triển doanh nhân.

Cùng với nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân, cần “Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới, hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và khả năng thích ứng, chống chịu của nền kinh tế, lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo”(6). Đó là điều kiện quan trọng để phát triển trình độ, năng lực đội ngũ doanh nhân.

Ba làxây dựng văn hóa doanh nhân Việt Nam hiện đại, giàu bản sắc dân tộc.

Xây dựng những chuẩn mực mới về văn hóa doanh nghiệp phù hợp với chuẩn mực xã hội và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thời kỳ hội nhập. Trong đó, xây dựng văn hóa doanh nhân là hạt nhân. Đó là những doanh nhân có trí tuệ, tri thức chuyên môn sâu rộng, có ý chí khát vọng vươn lên làm giàu cho bản thân và đất nước, có lòng tự tôn dân tộc, có năng lực cạnh tranh và khả năng hội nhập, có đạo đức kinh doanh, năng lực quản lý hiện đại, giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích doanh nghiệp lợi ích nhà nước và xã hội. Ðề cao văn hóa kinh doanh và trách nhiệm xã hội của doanh nhân, “Khuyến khích doanh nhân thực hiện trách nhiệm xã hội và tham gia phát triển xã hội”(7). Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, tích cực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Tăng cường và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền để thay đổi nhận thức của xã hội đối với doanh nhân, cũng như tạo hình ảnh của họ trong chế độ XHCN.

Bốn là, phát huy vai trò các tổ chức đại diện của cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân.

Đến nay nước ta có hơn 7.000 doanh nghiệp, trên 5 triệu doanh nhân. Sự gia tăng nhanh chóng của đội ngũ doanh nhân gắn với sự phát triển doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, đã hình thành nên các tổ chức đại diện của cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và tiến trình thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa ở ở nước ta, thì tất yếu các tổ chức đại diện của doanh nghiệp và doanh nhân ngày càng phát triển. Vì thế, cần phát huy vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, Hội doanh nhân Việt Namtrong việc “kết nối, sẻ chia và lan tỏa” các giá trị tri thức, công nghệ, kinh nghiệm và lợi ích từ sự phát triển. Tổ chức thành lập và liên kết hiệp hội doanh nghiệp tích cực tham gia hoạt động chính trị, xã hội; tập hợp và phản ánh nguyện vọng, ý kiến, kiến nghị của doanh nhân, tham mưu cho Ðảng và Nhà nước về các chính sách kinh tế – xã hội; thực hiện các biện pháp thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, doanh nhân. Phát triển các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề và nâng cao vai trò, trách nhiệm trong liên kết chuỗi sản xuất, kinh doanh, đổi mới dây truyền công nghệ hiện đại, chia sẻ những kinh nghiệm về quản trị, kinh doanh. Trên cơ sở đó giúp cho doanh nhân có cơ hội học tập lẫn nhau, rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn, nâng cao năng lực tư duy, hoạch định chiến lược phát triển doanh nghiệp và thực hiện trách nhiệm xã hội.

Năm là, thực hiện tốt chính sách tôn vinh những doanh nhân giỏi, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thực hiện tốt giải pháp này tạo ra động lực phát huy khát vọng cống hiến của doanh nhân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính sách tôn vinh doanh nhân không chỉ thừa nhận những thành tích cá nhân, mà còn khẳng định vị thế, vai trò, trách nhiệm xã hội, chính trị của của đội ngũ doanh nhân đối với đất nước. Những doanh nhân chân chính không chỉ có khát vọng làm giàu cho cá nhân, gia đình mà là khát vọng phát triển đất nước, dân tộc cường thịnh. Bởi vậy, cần đổi mới và thực hiện tốt nhiều chính sách tôn vinh những doanh nhân không những thành đạt trong kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, mà còn có đóng góp nguồn thu nhân sách cho nhà nước và các hoạt động từ thiện, nhân đạo… để ngày càng lan tỏa những “Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu”, “Nhà quản lý giỏi”. Ngoài ra, thường xuyên lắng nghe và giải quyết kịp thời tâm tư nguyện vọng của doanh nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho họ hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm giàu chính đáng, đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội.

Những doanh nhân chân chính không chỉ có khát vọng làm giàu cho cá nhân, gia đình mà là khát vọng phát triển đất nước, dân tộc cường thịnh.

Sáu là, phát huy tính tích cực, chủ động, tự phát triển của doanh nhân.

Mỗi doanh nhân là đối tượng phát triển, đồng thời là chủ thể của quá trình phát triển đội ngũ doanh nhân. Sự tác động của các chủ thể khác bằng nhiều con đường, giải pháp chỉ có hiệu lực, hiệu quả khi mỗi doanh nhân có ý thức làm chủ và tự chủ trong phát triển trình độ, năng lực, là tế bào để phát triển đội ngũ. Vì thế, mỗi doanh nhân cần đề cao ý thức học tập và tự học tập, tự đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ học vấn, trình độ chính trị, pháp luật, văn hóa, chuyên môn. Thường xuyên cập nhật, tận dụng cơ hội, nắm bắt và làm chủ hệ thống tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, ửng dụng vào quản lý, kinh doanh; trau dồi những kỹ năng cần thiết để đủ sức “đứng vững” và nâng cao năng lực cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, doanh nhân phải không ngừng tự bồi dưỡng, rèn luyện tác phong, phương pháp của nhà lãnh đạo, nhà quản lý với những chuẩn mực văn hóa tiến bộ, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc./.

Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh mới là một tất yếu khách quan. Đòi hỏi, phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, phát huy vai trò của các chủ thể, trong đó tự phát triển của mỗi doanh nhân là yếu tố quyết định đến kết quả cuối cùng, vì một Việt Nam phát triển và cường thịnh

 

Đại tá, PGS. TS. Lê Xuân Thủy

Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng

‘Cả hệ thống chính trị đồng hành cùng doanh nhân, doanh nghiệp’

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10), chiều tối 12/10, tại Nhà Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ gặp mặt đại diện lãnh đạo các doanh nghiệp tiêu biểu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ nhân dịp các doanh nhân tham Diễn đàn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam và vinh danh các thương hiệu mạnh.

Cùng tham dự có Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường, lãnh đạo một số Ủy ban của Quốc hội, lãnh đạo Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam…

Tại cuộc gặp mặt, đại diện các doanh nghiệp như lãnh đạo Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), Tổng Công ty May 10, Tập đoàn Masan cho biết thời gian qua, để tháo gỡ một phần khó khăn, vướng mắc, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã kịp thời điều chỉnh một số cơ chế, chính sách, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong tình hình dịch COVID-19; đồng thời đề nghị Quốc hội, Chính phủ tạo điều kiện để doanh nghiệp xây dựng phát triển năng lực hạ tầng mạng lưới viễn thông ở các địa bàn có điều kiện kinh tế khó khăn, hỗ trợ người dân nghèo tiếp cận thiết bị thông minh nhằm thúc đẩy các hoạt động xây dựng xã hội số, chính quyền số.

Đại diện các doanh nghiệp đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét ưu đãi thuế, thúc đẩy ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, chuyển đổi số, ban hành chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thanh toán không dùng tiền mặt, tạo khuôn khổ hành lang pháp lý cho việc chuyển đổi số quốc gia; có chính sách hỗ trợ về việc tạo ra các chuỗi cung ứng, phát triển xu thế kinh doanh offline lên online…

Quyền Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông quân đội (Viettel), Thiếu tướng Lê Đăng Dũng cho rằng trong đại dịch COVID-19 đã có rất nhiều cuộc họp bàn cách hỗ trợ doanh nghiệp được tổ chức. Các cuộc họp đều nói nhiều về hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, đây là điều rất cần thiết, nhưng ít đề cập tới khía cạnh giúp doanh nghiệp tận dụng cơ hội từ sau đại dịch – điều có tầm quan trọng không kém.

[Thủ tướng: Khẩn trương, tập trung hỗ trợ thúc đẩy sản xuất kinh doanh]

Cụ thể, đại dịch đã tạo động lực rất lớn thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, vì trong đại dịch mọi thứ đều có thể thực hiện trực tuyến hóa, tự động hóa, số hóa để phù hợp với tình trạng bình thường mới. Tuy nhiên trong 2 năm qua, chuyển đổi số ở nước ta vẫn còn ít và chậm. Nếu tiếp tục chậm, khi đại dịch lắng xuống, chúng ta sẽ bị tụt hậu so với thế giới. Nguyên nhân chủ yếu là do hành lang pháp lý, cơ chế, chính sách còn chậm, chưa theo kịp với cái mới, cái tiên tiến. Để khắc phục tình trạng này, cần cấp phép kịp thời cho các dịch vụ công nghệ mới, đồng thời tạo hành lang pháp lý để các doanh nghiệp số phát triển…

Các doanh nghiệp cũng đề xuất Chủ tịch Quốc hội, các đại biểu Quốc hội phát huy hơn nữa vai trò giám sát của Quốc hội trong việc thực thi chính sách, nhằm đảm bảo sự phù hợp và hiệu quả của các chính sách, tạo thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp, người lao động, phục hồi sản xuất, kinh doanh…

Ghi nhận ý kiến của các doanh nghiệp, theo Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp, phát huy vai trò của doanh nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, không chỉ là doanh nghiệp trong nước, mà cả các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.

Quốc hội đã từng bước hoàn thiện khung khổ pháp luật cho sự gia nhập thị trường, thúc đẩy hoạt động đầu tư kinh doanh, cạnh tranh, tăng cường kỷ luật thị trường, bảo đảm giao kết hợp đồng, xây dựng cơ chế rút lui khỏi thị trường thuận tiện và giải quyết tranh chấp có hiệu quả.

Chủ tịch Quốc hội đánh giá đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp từng bước lớn mạnh cả về số lượng, quy mô lẫn chất lượng, đóng góp to lớn vào những thành tựu phát triển của đất nước. Đến nay, Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp lớn mạnh, nhiều doanh nhân thành đạt với nhiều thương hiệu mạnh, hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, tạo việc làm cho người lao động và các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo.

Nhấn mạnh rằng đại dịch COVID-19 đã và đang tác động tiêu cực đến mọi khía cạnh của đời sống kinh tế-xã hội, Chủ tịch Quốc hội ghi nhận đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã phát huy tinh thần đoàn kết, ý thức trách nhiệm, tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo thích ứng với điều kiện khó khăn, vượt qua những thách thức do đại dịch mang lại. Trong bối cảnh ấy, nhiều doanh nghiệp, doanh nhân vẫn không quên trách nhiệm với cộng đồng xã hội, chung tay cùng các cấp chính quyền trong công tác phòng, chống dịch.

Chủ tịch Quốc hội đánh giá cao sáng kiến Diễn đàn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và vinh danh các thương hiệu mạnh Việt Nam được duy trì gần 20 năm qua. Đây là nơi hội tụ của các doanh nghiệp cả nước, cùng trao đổi kinh nghiệm, hợp tác sản xuất, kinh doanh, phản ánh những tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp và hiến kế của doanh nghiệp, doanh nhân, cũng như giới chuyên gia kinh tế tới các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý và lãnh đạo các địa phương.

Hoan nghênh ý kiến của Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phan Xuân Dũng và ý kiến của các lãnh đạo doanh nghiệp tại cuộc gặp mặt, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho rằng thời gian tới, cần quyết tâm cao hơn nữa trong việc thực hiện các biện pháp nhằm kịp thời khắc phục tác động của dịch bệnh, giảm thiểu thiệt hại, từng bước tái thiết và khôi phục kinh tế.

“Trong kế hoạch tái cơ cấu kinh tế của 5 năm tới cũng như trong kế hoạch bắt đầu từ năm 2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận, thống nhất rất cao đặt cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chương trình tổng thể thích ứng, phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, tăng tính tự chủ của nền kinh tế, tăng khả năng chống chịu, thích ứng với biến cố, những cú sốc do bất ổn kinh tế vĩ mô ở bên ngoài hoặc những vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu hay dịch bệnh,” Chủ tịch Quốc hội nói.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tặng quà lưu niệm cho các đại biểu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh cùng với những thách thức, đại dịch COVID-19 đang mang lại những cơ hội mới cho sự phát triển, các doanh nhân, doanh nghiệp cần tham gia tích cực, tạo đột phá trong thị trường khoa học, công nghệ, trong đó các doanh nghiệp công nghệ đóng vai trò vô cùng quan trọng; đồng thời mong cộng đồng doanh nghiệp đóng góp ý kiến về việc làm thế nào để cải thiện các điều kiện để tăng cường năng lực của thị trường vốn, thị trường khoa học-công nghệ và thị trường lao động; cải thiện các yếu tố để tăng năng lực hấp thụ vốn của nền kinh tế; thể chế, chính sách thúc đẩy năng lực đổi mới sáng tạo.

Chủ tịch Quốc hội cho rằng trong thời gian tới, cần quyết tâm cao hơn nữa trong việc thực hiện các biện pháp nhằm kịp thời khắc phục tác động của dịch bệnh, giảm thiểu thiệt hại, từng bước tái thiết và khôi phục kinh tế.

Về phía Nhà nước, bên cạnh việc tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ đã ban hành, Chủ tịch Quốc hội cho biết trong tuần này, sẽ làm việc với Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính-Ngân sách, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và một số cơ quan liên quan rà soát lại dư địa của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để nghiên cứu, xây dựng gói hỗ trợ tái thiết kinh tế.

Khẳng định Đảng, Quốc hội, Chính phủ và cả hệ thống chính trị luôn đồng hành cùng các doanh nhân, doanh nghiệp, thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội kêu gọi các doanh nhân, doanh nghiệp tích cực hơn nữa nâng cao trình độ, kiến thức toàn diện, chú trọng phẩm chất đạo đức, ý thức công dân, trách nhiệm xã hội và tinh thần dân tộc; xây dựng tầm nhìn chiến lược, bản lĩnh, tư duy đột phá, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới; nuôi dưỡng hoài bão lớn và khát vọng vươn lên góp phần nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh; chú trọng hơn nữa vào quản trị doanh nghiệp, đóng góp vào sự phát triển nhanh, bền vững và nâng cao năng lực tự chủ, tự cường của nền kinh tế./.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ gặp mặt Đoàn đại biểu dự Diễn đàn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp năm 2021. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

PrevNext

Hoàng Thị Hoa (TTXVN/Vietnam+)

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA DOANH NHÂN VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN

 Ngày 13-10-2021

Xem cỡ chữ:

 In  Gửi tới bạn

  1. Nguyễn Thị Chúc Huyền – GV Khoa Nhà nước và pháp luật
  2. Doanh nhân là ai?

Doanh nhân là một trong những thành phần phổ biến trong xã hội hiện nay. Trước đây, những thương nhân trao đổi mua bán hàng hóa được xem là các doanh nhân đầu tiên trong lịch sử loài người. Bản chất doanh nhân là những người làm ăn, kinh doanh. Ở nước ta trước năm 1986, “doanh nhân” không được tôn trọng, họ được gọi bằng những từ ngữ mô tả kinh doanh (thuộc tư nhân, tư hữu) như: hàng xáo, con buôn, cò…

Đến thời hiện đại, doanh nhân được nâng lên một tầm mới, họ là người tham gia vào lĩnh vực kinh doanh, thực hiện các hoạt động thương mại hoặc công nghiệp với mục đích tạo ra dòng tiền, bán hàng và doanh thu. Họ sử dụng kết hợp vốn nhân lực, tài chính, trí tuệ và vốn vật chất để tạo ra sự tăng trưởng, thúc đẩy kinh tế.

Cuốn Từ điển tiếng Việt (xuất bản tháng 4-2007) của Trung tâm từ điển học, do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên, Doanh nhân được định nghĩa là “Người làm nghề kinh doanh”; đồng thời còn có từ Doanh gia, được định nghĩa là “nhà doanh nghiệp, nhà kinh doanh lớn, có tiếng tăm” (tr. 218).

Như vậy, có thể hiểu “Doanh nhân là người sáng lập, chủ sở hữu hoặc cổ đông lớn của một doanh nghiệp thương mại. Doanh nhân đôi khi cũng gắn liền với những vị giám đốc điều hành, quản lý doanh nghiệp mặc dù chưa chắc họ là chủ sở hữu”.

Tuy nhiên, các giám đốc thuộc công ty nhà nước không được gọi là doanh nhân. Doanh nhân là thuật ngữ dành cho những công ty, doanh nghiệp ngoài nhà nước. Ngày trước doanh nhân chỉ gói gọn trong mỗi quốc gia, ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế toàn cầu, doanh nhân có thể là từ các chủ đầu tư nước ngoài.

Doanh nhân đóng vai trò quyết định trong việc huy động các nguồn lực tạo ra sản phẩm và dịch vụ cho xã hội, góp phần quan trọng vào việc thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng, xóa đói, giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho người lao động góp phần, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội của đất nước.

  1. Nguồn gốc ngày và ý nghĩa Ngày Doanh nhân Việt Nam

Sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư tay cho giới Công thương Việt Nam. Trong thư Người viết “…Hiện nay Công thương cứu quốc đoàn đương hoạt động để làm được nhiều việc ích lợi quốc dân. Tôi rất hoan nghênh và mong đợi nhiều kết quả tốt. Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà thì giới Công thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế, tài chính vững vàng và thịnh vượng.

Chính phủ, nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp đỡ giới thương nhân trong công cuộc kiến thiết này. Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là sự kinh doanh của các nhà doanh nghiệp thịnh vượng…” (Trích Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi giới Công thương được đăng trên Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam).

Để phát huy vai trò, truyền thống của đội ngũ doanh nhân Việt Nam, động viên các tầng lớp xã hội trong việc góp phần xây dựng và phát triển doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, theo đề nghị của Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Hiệp hội doanh nghiệp, ngày 20/9/2004 Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phan Văn Khải đã ký Quyết định số 990/QĐ-TTg về Ngày Doanh nhân Việt Nam, hằng năm lấy ngày 13 tháng 10 là “Ngày doanh nhân Việt Nam”. Việc Thủ tướng Chính phủ quyết đinh lấy ngày 13/10 là Ngày Doanh nhân Việt Nam mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc – đó chính là ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho giới công thương Việt Nam ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Thực tế đã khẳng định ý nghĩa lịch sử của bức thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi giới công thương vào ngày 13/10/1945. Trong giai đoạn này – giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế – bức thư của Hồ Chủ tịch vẫn còn nguyên giá trị, thể hiện đường lối đúng đắn và chỉ dẫn mang tính chiến lược của Người đối với việc khẳng định vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân trong xây dựng và kiến thiết đất nước.

Ý nghĩa của Ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10 chính là sự tôn vinh đóng góp của những người doanh nhân với sự phát triển của xã hội, khẳng định vị trí của mình vào công cuộc phát triển chung của đất nước, tạo động lực cho đội ngũ tinh hoa này sẽ tiếp tục tiến lên, vượt qua những thách thức, đóng góp vào công cuộc chung, giúp những vị doanh nhân nhận thức đúng đắn, ngày càng hăng hái trong việc phát triển sản xuất, đưa kinh tế Việt Nam phát triển, hội nhập với thế giới.

  1. Sự phát triển của Doanh nghiệp, Doanh nhân Việt Nam hiện nay

Những năm qua, các doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt Nam đã không ngừng trưởng thành và lớn mạnh, đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế.

Thực hiện đường lối của Đảng, dưới sự quản lý của Nhà nước, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và rất đáng tự hào. Năm 2019, bình quân cả nước có 7,9 doanh nghiệp đang hoạt động/1.000 dân so với 5,4 doanh nghiệp năm 2016. Giai đoạn 2017-2020, tỷ trọng của kinh tế tư nhân trong GDP luôn chiếm tỷ trọng cao nhất và liên tục tăng, từ 41,75% (2017) lên mức 42,68% (2020). Ðến tháng 1 năm 2021, Việt Nam đã có hơn 800 nghìn doanh nghiệp, khoảng 5,2 triệu hộ kinh doanh, số lượng đội ngũ doanh nhân đã lên đến hơn 5 triệu người. Con số trên đã minh chứng việc mở đường cho doanh nghiệp phát triển là hướng đi đúng đắn, nhiều doanh nhân Việt Nam lọt vào tốp “tỷ phú USD” toàn cầu. Họ là lực lượng chủ công, xung kích trong công cuộc thoát nghèo vĩ đại, đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, bị tàn phá bởi chiến tranh, trở thành một nước có thu nhập trung bình và đang vững vàng hội nhập.

Cùng với sự tăng nhanh về số lượng và quy mô của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đội ngũ doanh nhân nước ta đã không ngừng lớn mạnh, đóng góp tích cực vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động, xóa đói, giảm nghèo và tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết các vấn đề an sinh xã hội của đất nước. Hiện khu vực doanh nghiệp cũng đóng góp hơn 60% GDP, với khoảng 70% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút hàng chục triệu lao động. Vì vậy, có thể coi việc thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển và tạo nên vị thế của Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới là sứ mệnh, trọng trách của đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp.  Hiện nay, Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp tiềm lực như: Viettel, Vingroup, Vietnam Airlines, Vinamilk, FPT, Thaco, TH Group… Những doanh nghiệp này đang ngày một lớn dần về cả về quy mô, năng lực cạnh tranh, sản phẩm dịch vụ, quản trị điều hành, công nghệ. Đã có nhiều doanh nhân, doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.

Tuy nhiên, về số lượng, chất lượng của doanh nghiệp cũng còn những vấn đề phải quan như: tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị yếu… như nhận định tại Đại hội XIII của Đảng: “Năng lực và trình độ của nền kinh tế nhìn chung còn thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỷ lệ nội địa hóa thấp, hiệu quả tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế;…”

Trong tương lai, môi trường xã hội, môi trường pháp lý thuận lợi hơn sẽ tạo điều kiện để doanh nhân Việt Nam ngày càng phát huy mạnh mẽ sở trường và tiềm năng của mình, vươn ra tầm thế giới.

  1. Sự phát triển của doanh nghiệp, doanh nhân tỉnh Hậu Giang

Hòa vào xu thế phát triển chung, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân tỉnh Hậu Giang cũng không ngừng phát triển, khẳng định vị thế và uy tín trong quá trình sản xuất, hợp tác kinh doanh.

Theo thống kê, đến hết năm 2020, Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Hậu Giang có 148 hội viên, riêng nhiệm kỳ vừa qua phát triển được thêm 125 hội viên. Với phương châm “Kết nối doanh nhân, nâng tầm doanh nghiệp”, Hiệp hội đã khẳng định được uy tín, vai trò cầu nối cho doanh nghiệp với chính quyền, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập quốc tế. Hiệp hội tổ chức chương trình Cà phê doanh nhân định kỳ mỗi tháng một lần (thời gian gần đây có gián đoạn do dịch Covid-19), qua đó lãnh đạo tỉnh đã kịp thời nắm bắt và tháo gỡ vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh.

Được biết, giá trị tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tỉnh Hậu Giang năm 2020 đứng đầu trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long và nằm trong nhóm 20 tỉnh, thành là minh chứng cho sự đóng góp tích cực của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân tỉnh Hậu Giang.

Với thông điệp “công việc của người dân và doanh nghiệp cũng là công việc của chính quyền”, ông Lê Tiến Châu, Bí thư Tỉnh ủy, nhấn mạnh trong buổi Cà phê doanh nhân lần I trong năm 2021 do Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh tổ chức: “Mỗi sở, ngành, địa phương cần xác định luôn đồng hành và hỗ trợ doanh nghiệp, những kiến nghị, vướng mắc được ghi nhận và giải quyết ngay”. Qua đó, cho thấy sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh Hậu Giang đối với doanh nhân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Đ/c Lê Tiến Châu, Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang phát biểu tại buổi Cà phê doanh nhân (3/2021)

Hiện nay, do ảnh hưởng tình hình dịch bệnh Covid-19 nên các doanh nghiệp, doanh nhân trên địa bàn tỉnh Hậu Giang cũng gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, với nỗ lực và quyết tâm cao, các doanh nghiệp, doanh nhân tỉnh Hậu Giang đã tích cực tham gia đóng góp cho an sinh xã hội và các hoạt động góp phần phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Hậu Giang, chung tay phòng chống dịch COVID-19, ủng hộ đồng bào miền Trung trong thiên tai, lũ lụt… với tổng số tiền trên 5,4 tỷ đồng.

Qua đó cho thấy đội ngũ doanh nhân tỉnh Hậu Giang ngày càng lớn mạnh, có đủ năng lực, trình độ để quản lý, điều hành doanh nghiệp, vừa có tâm, có tầm, phát huy tinh thần tương thân, tương ái, tăng cường liên kết, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch cùng phát triển, góp phần vào sự phát triển của kinh tế xã hội tỉnh Hậu Giang nói riêng và cả nước nói chung.

  1. Giải pháp phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển mới

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của Việt Nam mang lại nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức cho nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung trong đó có Hậu Giang. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định cần: “Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nhất là các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm công nghệ cao, thân thiện với môi trường, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hậu Giang lần thứu XIV cũng nhấn mạnh ở các nhiệm vụ chủ yếu: “Tập trung phát triển kinh tế, đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát huy sức mạnh tổng hợp mọi thành phần kinh tế; tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp, có chính sách quan tâm doanh nghiệp tư nhân; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội kết nối giữa các địa phương trong Tỉnh và giữa Tỉnh với các tỉnh, thành trong khu vực. Chủ động và tích cực trong liên kết vùng và hội nhập quốc tế”.

Để xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh là bước đột phá góp phần thúc đẩy phát triển đất nước nói chung cũng như tỉnh Hậu Giang nói riêng thì cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với sự nghiệp phát triển đội ngũ doanh nhân.

Các cấp ủy đảng thường xuyên quan tâm xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân; chỉ đạo triển khai thực hiện chiến lược phát triển đội ngũ doanh nhân. Cụ thể hóa đường lối, chính sách của Ðảng đối với đội ngũ doanh nhân bằng các chương trình hành động thiết thực. Thường xuyên lắng nghe và tham vấn ý kiến của doanh nhân trong phát triển kinh tế – xã hội của ngành, địa phương. Qua đó, nhằm định hướng, tạo lập một đội ngũ doanh nhân đầy khát vọng cống hiến, khát khao làm giàu, đủ bản lĩnh vượt qua những thách thức trong bối cảnh hiện nay. Khẳng định được thương hiệu Việt trên trường quốc tế và có một trách nhiệm với cộng đồng, với quốc gia, dân tộc.

Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, đồng thời với việc công khai minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển.

Phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt, lành mạnh các thị trường, nhất là thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học – công nghệ. Công khai, minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, các chính sách hỗ trợ để định hướng cho doanh nhân, doanh nghiệp đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch phát triển và bảo đảm quyền lợi đầu tư, giảm rủi ro kinh doanh cho doanh nhân.

Thứ ba, xây dựng hệ thống các biện pháp hỗ trợ doanh nhân tham gia khu vực kinh doanh chính thức, mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đẩy mạnh liên kết sản xuất, kinh doanh.

Xây dựng chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp gắn với quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp, chuyển dịch cơ cấu ngành, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Đồng thời đẩy mạnh liên kết sản xuất; Hỗ trợ doanh nhân xây dựng thương hiệu sản phẩm gắn với doanh nghiệp; nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong nước và nước ngoài thông qua các chương trình xúc tiến thương mại cụ thể, thực chất.

Thứ tư, tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo và bồi dưỡng doanh nhân.

Bản thân mỗi chủ doanh nghiệp cần có ý thức nâng cao trình độ học vấn, các kiến thức chuyên ngành, kiến thức văn hóa, kinh tế, pháp luật và xã hội, những ứng dụng khoa học kỹ thuật để cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí…

Tóm lại, đội ngũ doanh nhân là lực lượng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất, uy tín cao sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế./.

Tài liệu tham khảo

  1. Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
  2. https://www.baohaugiang.com.vn/thoi-su-trong-tinh/dai-hoi-hiep-hoi-doanh-nghiep-tinh-hau-giang-nhiem-ky-2020-2025-94763.html
  3. https://www.baohaugiang.com.vn/thoi-su-trong-tinh/hon-40-doanh-nghiep-tham-gia-ca-phe-doanh-nhan-lan-i-nam-2021-96457.html
  4. https://dangcongsan.vn/kinh-te/doanh-nhan-viet-nam-thanh-qua-cua-cong-cuoc-doi-moi-565492.html
  5. https://www.thanhuytphcm.vn/tin-tuc/hinh-thanh-doi-ngu-doanh-nhan-sang-tao-tu-lap-tu-chu-dam-nghi-dam-lam-dam-duong-dau-1491873367
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

*

Số: 09 – NQ/TW

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

Hà Nội, ngày 09 tháng 12 năm 2011

NGHỊ QUYẾT

CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

I- ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH

Trong những năm qua, Ðảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp, phát huy vai trò của doanh nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhờ đó, nhận thức về vai trò của đội ngũ doanh nhân có chuyển biến tích cực, nhiều cấp ủy đảng, chính quyền thường xuyên quan tâm đến sự phát triển của doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân, hướng hoạt động của doanh nghiệp, doanh nhân vào mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, đất nước.

Cùng với sự tăng nhanh về số lượng và quy mô của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đội ngũ doanh nhân nước ta đã không ngừng lớn mạnh, đóng góp tích cực vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động và các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Đội ngũ doanh nhân trong khu vực doanh nghiệp nhà nước ngày một trưởng thành, chất lượng được nâng lên, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đội ngũ doanh nhân trong khu vực ngoài nhà nước ngày càng đông đảo, thể hiện tính năng động, hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đội ngũ doanh nhân đã phát huy tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm với xã hội, từng bước nâng cao được uy tín, thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp, góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Nhiều doanh nhân đã tích cực tham gia các chương trình xã hội, chương trình xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, chương trình vì cộng đồng, gắn bó hơn với giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đội ngũ doanh nhân nước ta còn không ít hạn chế, bất cập, nhất là về kiến thức, sự am hiểu pháp luật và năng lực kinh doanh, kinh nghiệm quản lý, khả năng cạnh tranh và hội nhập. Một bộ phận doanh nhân còn thiếu văn hóa kinh doanh và trách nhiệm xã hội, chưa tự giác tuân thủ pháp luật, lợi dụng những kẽ hở của pháp luật để trục lợi, móc nối với những phần tử thoái hóa, biến chất trong bộ máy quản lý nhà nước, vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, làm trầm trọng thêm các tiêu cực xã hội.

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên trước hết là do những sơ hở, lỏng lẻo và yếu kém của hệ thống các quy định pháp luật và công tác quản lý nhà nước; do đội ngũ doanh nhân nước ta mới hình thành và phát triển, chưa có tích lũy nhiều về vốn, tri thức, công nghệ và kinh nghiệm, truyền thống kinh doanh. Ở một số nơi, sự quan tâm của cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đối với doanh nhân còn hạn chế, chưa có được sự thống nhất nhận thức về vai trò của doanh nhân trong phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Thể chế về phát triển doanh nghiệp, doanh nhân còn thiếu đồng bộ; cải cách hành chính còn chậm. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục truyền thống và đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu. Vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nhân chưa được chú trọng. Công tác phát triển đảng trong đội ngũ doanh nhân và việc xây dựng tổ chức đảng, tổ chức chính trị – xã hội trong doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước còn nhiều bất cập…

II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO

1- Đội ngũ doanh nhân là lực lượng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất, uy tín cao, sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

2- Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, nâng cao trình độ, kiến thức toàn diện của doanh nhân, chú trọng nâng cao phẩm chất đạo đức, ý thức công dân, trách nhiệm xã hội và tinh thần dân tộc của đội ngũ doanh nhân, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

3- Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh là trách nhiệm của Đảng, của cả hệ thống chính trị và của bản thân mỗi doanh nghiệp, doanh nhân. Xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân phải gắn liền với hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền sở hữu và tự do kinh doanh của doanh nhân theo pháp luật, khuyến khích doanh nhân làm giàu cho mình và cho đất nước. Tăng cường mối liên kết, hợp tác, đoàn kết cùng có lợi giữa doanh nhân với công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

III- MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ

1- Mục tiêu

Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần dân tộc, giác ngộ chính trị, văn hóa kinh doanh, có trách nhiệm xã hội cao, có đủ năng lực, trình độ để lãnh đạo, quản lý các doanh nghiệp hoạt động có chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao, liên kết chặt chẽ, tham gia tích cực vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và toàn cầu; không ngừng phát triển, phấn đấu đến năm 2020 có một số doanh nhân, doanh nghiệp có thương hiệu đạt tầm cỡ khu vực Đông – Nam Á.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

2.1- Nâng cao nhận thức về vai trò của đội ngũ doanh nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhằm tạo sự chuyển biến nhận thức trong cán bộ, đảng viên và sự đồng thuận xã hội về vị trí, vai trò của doanh nhân, doanh nghiệp trong phát triển kinh tế – xã hội đất nước, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; phát huy tinh thần yêu nước, trách nhiệm xã hội trong kinh doanh, khuyến khích các hoạt động sản xuất, kinh doanh tạo ra nhiều của cải cho xã hội; tôn vinh sự cống hiến và bảo hộ thu nhập hợp pháp của doanh nhân; nâng cao trách nhiệm của doanh nhân đối với cộng đồng xã hội.

Tổ chức cho doanh nhân và doanh nghiệp thực hiện tốt việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và các cuộc vận động khác do Đảng, Nhà nước phát động.

2.2- Tạo môi trường sản xuất, kinh doanh bình đẳng và thuận lợi cho doanh nhân

Công khai, minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, các chính sách hỗ trợ để định hướng cho doanh nhân, doanh nghiệp đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch phát triển và bảo đảm quyền lợi đầu tư, giảm rủi ro kinh doanh cho doanh nhân. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, nhất là trong việc thực hiện các dự án, công trình theo hình thức hợp tác công – tư. Khuyến khích tư nhân góp vốn vào các doanh nghiệp nhà nước. Thúc đẩy hình thành các doanh nghiệp lớn, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh, về tài chính công, thuế, tài nguyên môi trường, bảo vệ người tiêu dùng; tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, xoá bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh, xã hội hoá đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế – xã hội. Phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt, lành mạnh các thị trường, nhất là thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học – công nghệ. Nâng cao hiệu lực xét xử của tòa án về các vụ việc tranh chấp thương mại, khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính đối với doanh nhân, doanh nghiệp, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nhân, doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khuyến khích và có biện pháp bảo vệ các doanh nhân đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.

Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế đối thoại, tham vấn ý kiến của doanh nhân trong quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, phát triển kinh tế vùng và địa phương.

Xây dựng các cơ chế, chính sách và tăng cường kiểm tra, giám sát để bảo đảm tính minh bạch trong quan hệ giữa các cơ quan, công chức, viên chức nhà nước với doanh nghiệp, doanh nhân, nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi những hiện tượng móc nối trục lợi, gây khó khăn, phiền hà đối với doanh nhân trong quá trình kinh doanh.

Xây dựng cơ chế giám sát và đánh giá tác động của chính sách phát triển doanh nghiệp của Quốc hội, hội đồng nhân dân và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.

2.3- Hỗ trợ đội ngũ doanh nhân mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, khuyến khích phát triển doanh nhân khu vực nông thôn

Xây dựng chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp gắn với quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp, chuyển dịch cơ cấu ngành, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước với trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và ngân hàng thương mại nhà nước.

Thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, quan tâm hỗ trợ hộ kinh doanh cá thể phát triển thành doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp. Khuyến khích liên kết, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp, tăng nhanh số lượng doanh nghiệp có quy mô vừa; thúc đẩy hình thành và phát triển doanh nghiệp lớn, có khả năng dẫn dắt, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ, khẳng định vị trí tại thị trường trong nước và thâm nhập có hiệu quả vào thị trường thế giới.

Hỗ trợ doanh nhân xây dựng thương hiệu sản phẩm gắn với doanh nghiệp; nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong nước và nước ngoài thông qua các chương trình xúc tiến thương mại cụ thể, thực chất. Chú trọng cung cấp kiến thức pháp luật, thông tin về thị trường, về khoa học công nghệ cho doanh nghiệp. Cơ quan đại diện thương mại, đại diện ngoại giao có trách nhiệm giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nhân khi hoạt động kinh doanh ở nước ngoài; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nhân Việt Nam tham gia tiến trình hội nhập quốc tế.

Có chính sách và triển khai các biện pháp tạo thuận lợi cho doanh nhân đầu tư nghiên cứu đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, nghiên cứu thiết kế, thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ mới. Chú trọng đầu tư phát triển doanh nghiệp trong các khu công nghệ cao. Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp, làng nghề, vùng chuyên canh sản xuất, chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản. Tăng cường liên kết, hợp tác đầu tư giữa các doanh nghiệp, doanh nhân với công nhân, nông dân và các nhà khoa học.

Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển lực lượng doanh nhân khu vực nông nghiệp, nông thôn; cải thiện khả năng tiếp cận thông tin tài chính, công nghệ và thị trường của doanh nhân ở khu vực này; chú trọng gắn kết chặt chẽ, bảo đảm hài hoà lợi ích giữa nhà kinh doanh và nhà nông.

2.4- Quan tâm, tạo chuyển biến trong đào tạo và bồi dưỡng doanh nhân

Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình đào tạo doanh nhân, chương trình đào tạo về khởi sự doanh nghiệp; trang bị cho doanh nhân mới những kiến thức cần thiết về kinh doanh, về pháp luật và trách nhiệm xã hội; từng bước tiếp cận chuẩn mực pháp luật quốc tế trong đào tạo quản trị kinh doanh, quản trị doanh nghiệp.

Đổi mới nội dung chương trình, phương pháp đào tạo về kinh tế, quản trị kinh doanh ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề theo hướng nâng cao tính thực tiễn của các chương trình đào tạo và khả năng thực hành của học viên. Tăng cường mối quan hệ, liên kết giữa nhà trường, viện nghiên cứu với các doanh nghiệp; gắn đào tạo của nhà trường với yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội; khuyến khích doanh nhân tham gia đầu tư và giảng dạy trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, ý thức trách nhiệm, sự trung thực, tinh thần hợp tác, ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng. Tạo điều kiện để doanh nhân Việt Nam giao lưu học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với doanh nhân nước ngoài.

2.5- Đề cao đạo đức, văn hoá kinh doanh, trách nhiệm xã hội, tinh thần dân tộc của đội ngũ doanh nhân, xây dựng quan hệ lao động hài hòa

Xây dựng chuẩn mực của doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật; có khát vọng vươn lên làm giàu cho mình, cho đất nước, không ngừng nâng cao năng lực kinh doanh và quản trị doanh nghiệp; có trách nhiệm với người lao động, với cộng đồng, xã hội và có đạo đức, văn hoá kinh doanh, góp phần chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.

Xây dựng hình ảnh doanh nhân có bản sắc Việt Nam; khuyến khích doanh nhân không ngừng hoàn thiện mình để trở thành những người có trách nhiệm, có đóng góp cho xã hội và đất nước. Phát động các phong trào thi đua để nuôi dưỡng khát vọng vươn lên của doanh nhân Việt Nam. Đồng thời, quản lý hoạt động tôn vinh khen thưởng doanh nghiệp, doanh nhân tiêu biểu theo đúng quy định của pháp luật, thực sự có tác dụng biểu dương, nêu gương.

Hoàn thiện khung khổ pháp luật để xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ và tăng cường sự gắn bó giữa doanh nhân và người lao động trong doanh nghiệp. Doanh nhân có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành, phát triển các tổ chức chính trị và chính trị – xã hội trong doanh nghiệp; tham gia xây dựng hệ thống pháp luật, nhất là những quy định liên quan đến doanh nghiệp, doanh nhân.

2.6- Phát huy vai trò của các tổ chức đại diện của cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân

Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với vai trò là một tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp vững mạnh của cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân và người sử dụng lao động ở Việt Nam.

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và các hiệp hội doanh nghiệp cần quan tâm đến công tác vận động chính trị trong đội ngũ doanh nhân bằng nhiều hình thức thích hợp; tập hợp, phản ánh ý kiến, nguyện vọng của đội ngũ doanh nhân; tham mưu cho Đảng, Nhà nước về các chính sách kinh tế – xã hội; xây dựng đạo đức, văn hoá kinh doanh, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, doanh nhân; hỗ trợ doanh nghiệp, doanh nhân hội nhập kinh tế quốc tế.

Tăng cường hợp tác, tham vấn, đối thoại giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các hiệp hội doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước; tạo điều kiện cho các doanh nhân, hiệp hội doanh nghiệp tham gia vào việc xây dựng, triển khai các quy hoạch phát triển ngành hàng, kinh tế vùng và địa phương. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho các hiệp hội và hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp.

2.7- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân

Các cấp ủy đảng thường xuyên quan tâm xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân; chỉ đạo triển khai thực hiện chiến lược phát triển đội ngũ doanh nhân. Cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng đối với đội ngũ doanh nhân bằng các chương trình hành động thiết thực. Thường xuyên lắng nghe và tham vấn ý kiến của doanh nhân trong phát triển kinh tế – xã hội của ngành, địa phương. Quan tâm lãnh đạo đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm phiền hà, sách nhiễu trong việc thực hiện các thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, doanh nhân.

Chú trọng công tác phát triển đảng, xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nâng cao giác ngộ chính trị cho người sử dụng lao động và người lao động, bảo đảm cho hoạt động của doanh nghiệp, doanh nhân theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thí điểm việc kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Tạo điều kiện cho đội ngũ doanh nhân có đại diện trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị.

Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức, đoàn thể trong doanh nghiệp. Hướng dẫn để các tổ chức, đoàn thể hợp tác cùng doanh nhân góp phần xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, xây dựng đạo đức, văn hoá kinh doanh, quan hệ lao động hài hoà, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, bảo đảm doanh nghiệp phát triển bền vững, đời sống vật chất, tinh thần của người lao động không ngừng được nâng cao.

IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1-Cấp ủy, tổ chức đảng ở từng cấp có trách nhiệm tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết tới cán bộ, đảng viên; xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết.

2- Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật về phát triển doanh nghiệp, doanh nhân.

3- Ban cán sự đảng Chính phủ xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết; chuẩn bị đề án đào tạo phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam đến năm 2020; lãnh đạo việc rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân đến năm 2020.

4- Đảng đoàn Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với các bộ, ngành xây dựng và tổ chức triển khai các chương trình hỗ trợ doanh nhân nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập, khen thưởng, tôn vinh doanh nhân, phát triển các hiệp hội doanh nghiệp và làm tốt công tác đại diện người sử dụng lao động.

5- Ban Dân vận Trung ương phối hợp với các ban của Đảng và Đảng đoàn Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Nghị quyết này được phổ biến đến chi bộ.

T/M BỘ CHÍNH TRỊ

TỔNG BÍ THƯ

(Đã ký)

 

 

 

Nguyễn Phú Trọng

Doanh nhân tham gia nghị trường phải “vượt lên chính mình”

25/07/2011 18:43 GMT+7

TTO – Quốc hội khóa XIII có tỉ lệ doanh nhân là đại biểu khá cao so với nhiều nhiệm kỳ trước, tỉ lệ đó nói lên điều gì? Đó là câu hỏi Tuổi Trẻ đặt ra với ông Vũ Tiến Lộc – chủ tịch Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam – bên hành lang Quốc hội, chiều 25-7.

Ông Lộc nói:

– Đảng ta đã xác định trong giai đoạn hiện nay phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, và chúng ta biết rằng doanh nghiệp, doanh nhân đóng vai trò là đội quân chủ lực, xung kích trên mặt trận này. Nhìn ra thế giới, sức mạnh của nền kinh tế của mỗi quốc gia tùy thuộc sức mạnh của đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân quốc gia đó, cho nên mọi quốc gia đều tìm cách chăm sóc, phát triển đội ngũ doanh nhân của mình.

Theo thống kê của chúng tôi, Quốc hội khóa XIII có 38 doanh nhân tham gia, bên cạnh đó doanh nhân cũng tham gia khá đông ở HĐND các cấp. Điều đó cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự ghi nhận của xã hội về vai trò của một tầng lớp, một lực lượng xã hội đã và đang hình thành, phát triển trong nền kinh tế của đất nước.

* Doanh nhân có những thế mạnh nào khi tham gia Quốc hội để đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước?

– Quyết định các vấn đề quan trọng về phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng các đạo luật về kinh tế… là một trong những nội dung quan trọng của tất cả các kỳ họp. Doanh nhân là những người hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực này, cho nên họ có thể mang đến diễn đàn Quốc hội hơi thở của đời sống kinh tế, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

* Có ý kiến cho rằng thực tiễn luôn có các nhóm lợi ích khác nhau, trong khi đó doanh nhân tham gia nghị trường nghĩa là trực tiếp xây dựng thể chế, xây dựng chính sách, liệu có những sự vận động vì lợi ích cục bộ?

– Tiếng nói của doanh nhân ở nghị trường phải là tiếng nói bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng. Mỗi doanh nhân khi tham gia Quốc hội phải vượt lên chính mình để trở thành người đại diện cho cử tri, cho các tầng lớp nhân dân, đại diện cho nền kinh tế chứ không phải chỉ đại diện cho giới của mình. Đó là thách thức rất lớn. 

Rất nhiều doanh nhân khi tham gia nghị trường vẫn tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong lĩnh vực kinh tế với tư cách là người tổ chức điều hành doanh nghiệp. Nhưng cũng có những doanh nhân cùng với quá trình hoạt động Quốc hội sẽ là bước đi đầu tiên để họ trưởng thành bằng con đường trở thành chính khách, trở thành các nhà quản lý và lãnh đạo.

Đó cũng là việc bình thường, vì trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương hiện có rất nhiều người đã trưởng thành từ doanh nghiệp.

Chính phủ sẽ tiếp tục đồng hành, tạo thuận lợi để doanh nhân trẻ cống hiến tài năng cho đất nước

(Chinhphu.vn) – Với tinh thần xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động phục vụ nhân dân, phục vụ doanh nghiệp, trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân, Chính phủ sẽ tiếp tục đồng hành, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân trẻ khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng cho đất nước.

31/03/2022  18:55

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cùng các đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2022-2025 – Ảnh VGPSáng 31/3, Đồng chí Lê Minh Khái, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ đã dự và phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2022-2025.

Dự Đại hội có đồng chí Bùi Thị Minh Hoài, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương, đồng chí Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đồng chí Nguyễn Anh Tuấn, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh…

Khẳng định vị thế, uy tín trong cộng đồng doanh nhân và xã hội

Phát biểu tại đại hội, đồng chí Lê Minh Khái nêu rõ, nhiệm kỳ vừa qua, mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong tổ chức và hoạt động của Hội Doanh nhân trẻ, nhất là tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến hết sức phức tạp, ảnh hưởng nặng nề đến mọi mặt của đời sống xã hội nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng, nhưng phát huy truyền thống tốt đẹp của tuổi trẻ Việt Nam, với khát vọng cống hiến và tinh thần “Doanh nghiệp trẻ Việt Nam – Tiên phong đổi mới – Kiến tạo giá trị”, Hội Doanh nhân trẻ và đội ngũ doanh nhân trẻ Việt Nam đã khẳng định vai trò, sức trẻ, sự đoàn kết, năng động, sáng tạo, nỗ lực cố gắng vượt qua khó khăn, đạt được những kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Đồng chí Lê Minh Khái nhấn mạnh: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước rất vui mừng trước sự phát triển ngày càng lớn mạnh của Hội Doanh nhân trẻ, đội ngũ doanh nhân trẻ Việt Nam cả về tổ chức, số lượng, chất lượng và phạm vi hoạt động.

Từ một Câu lạc bộ Doanh nghiệp trẻ Việt Nam với 15 hội viên ban đầu, 2 Câu lạc bộ Doanh nhân trẻ tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, đến nay tổ chức của Hội đã có mặt ở 63 tỉnh, thành phố trong cả nước và trên 11.000 hội viên. Hoạt động của Hội đã vươn ra tầm thế giới và khu vực khi trở thành thành viên của tổ chức Doanh nghiệp trẻ châu Á-Thái Bình Dương vào năm 2021.

Quá trình hoạt động, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam đã có nhiều tìm tòi, sáng tạo, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động với nhiều sáng kiến mới, để lại dấu ấn tốt, khẳng định vị thế, uy tín trong cộng đồng doanh nhân và xã hội.

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái: Chính phủ sẽ tiếp tục đồng hành, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân trẻ khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng cho đất nước – Ảnh VGPCác doanh nghiệp của Hội Doanh nhân trẻ ngày càng lớn mạnh

Các doanh nghiệp của Hội Doanh nhân trẻ cũng ngày càng lớn mạnh, đang tạo việc làm cho hơn 3 triệu lao động với tổng doanh thu hằng năm trên 30 tỷ USD và đóng góp tích cực cho ngân sách nhà nước.

Nhiều doanh nhân trẻ đã nêu cao tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, khát vọng cống hiến, năng động sáng tạo, chủ động hội nhập, khởi nghiệp thành công; tạo dựng được uy tín, thương hiệu trên thị trường, tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có giá trị, chất lượng cao.

Trước tác động của đại dịch COVID-19, các doanh nhân, doanh nghiệp trẻ Việt Nam không chỉ đoàn kết, bản lĩnh, sáng tạo để trụ vững, thích ứng linh hoạt, an toàn, từng bước vượt qua khó khăn, thử thách mà còn nêu cao trách nhiệm, tích cực tham gia công tác an sinh xã hội với nhiều hoạt động đầy ý nghĩa, thể hiện tinh thần chia sẻ vì cộng đồng.

Nhất là sự sáng tạo trong việc triển khai các mô hình ATM chống dịch COVID-19 (ATM gạo, ATM oxy, ATM F0 chống dịch, ATM yêu thương nhận bảo trợ trẻ em mồ côi do dịch COVID-19…), nhiều doanh nhân trẻ đã luôn sát cánh đồng hành cùng với Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong việc triển khai nhiều chương trình xã hội để giúp đỡ các gia đình nghèo ở những địa bàn nông thôn, miền núi, hải đảo… Tất cả những nghĩa cử cao đẹp của lực lượng doanh nhân trẻ Việt Nam trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn đã lan tỏa giá trị nhân văn và tạo ý nghĩa kinh tế, xã hội sâu sắc.

Những kết quả đạt được của doanh nhân trẻ Việt Nam nhiệm kỳ qua đã giúp củng cố, phát triển ngày càng vững chắc vị thế của Hội Doanh nhân trẻ và đội ngũ các nhà doanh nghiệp trẻ Việt Nam. Bằng những việc làm cụ thể của doanh nhân trẻ, các bạn không chỉ biết làm giàu chính đáng cho doanh nghiệp mình mà còn sẵn sàng chia sẻ, ủng hộ, giúp đỡ để mọi người cùng vượt qua hoàn cảnh khó khăn với tinh thần không để ai bị bỏ lại phía sau.

Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2022- 2025 là sự kiện quan trọng đánh dấu bước trưởng thành và phát triển mới của phong trào doanh nhân trẻ Việt Nam – Ảnh VGPTrách nhiệm đặt ra đối với Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam là rất lớn

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng chí Lê Minh Khái nhiệt liệt biểu dương và ghi nhận những thành công, đóng góp quan trọng của đội ngũ doanh nhân trẻ và Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam nhiệm kỳ vừa qua; biểu dương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam đã quan tâm theo dõi, giúp đỡ, định hướng hoạt động đối với Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam trong thời gian qua.

Đồng chí Lê Minh Khái nêu rõ: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là: Phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.

Quá trình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi đất nước cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức; nhất là trước diễn biến hết sức phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực, tác động của quá trình hội nhập quốc tế, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và dịch bệnh COVID-19.

Trong điều kiện như vậy, cần có sự đoàn kết, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, trong đó có lực lượng doanh nghiệp trẻ Việt Nam.

Trong điều kiện, hoàn cảnh đó, trước những yêu cầu đòi hỏi nêu trên thì trách nhiệm đặt ra đối với Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam là rất lớn nhưng cũng rất vinh dự, tự hào. Đồng chí Lê Minh Khái bày tỏ đồng tình, nhất trí cao với mục tiêu, phương hướng hành động của Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam trong nhiệm kỳ 2022-2025 đã được Đại hội thông qua, đồng thời trao đổi nhấn mạnh thêm một số nội dung chủ yếu sau đây để Hội doanh nghiệp trẻ nghiên cứu trong quá trình triển khai thực hiện.

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đề nghị Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam kịp thời đề xuất với Đảng, Nhà nước nhiều ý tưởng, sáng kiến trong quá trình hoạch định chủ trương, chính sách, tạo điều kiện cho các doanh nhân trẻ cống hiến và phát triển – Ảnh VGPHội Doanh nhân trẻ phải thực sự là mái nhà chung

Theo đồng chí Lê Minh Khái, trong thời kỳ đất nước đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào cộng đồng các quốc gia trên thế giới, đội ngũ doanh nhân có vai trò, sứ mệnh rất quan trọng. “Thương trường là chiến trường”, doanh nhân chính là những chiến sĩ trên chiến trường không có tiếng súng nhưng cạnh tranh vô cùng khốc liệt, đòi hỏi bản lĩnh, trí tuệ, nhậy bén chớp lấy thời cơ.

Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ và doanh nhân trẻ, từ đó chú trọng tuyên truyền, vận động, thuyết phục hội viên nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những yêu cầu mới đặt ra đối với doanh nghiệp, doanh nhân trẻ trong quá trình hoạt động; khơi dậy niềm tự hào dân tộc và ý chí tự lực tự cường của doanh nhân trẻ.

Trước mắt là nỗ lực vượt qua khó khăn, khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh trong và sau đại dịch COVID-19, tham gia tích cực, hiệu quả vào việc phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội theo Kết luận của Bộ Chính trị, các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ.

Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam cần tiếp tục xây dựng, củng cố, phát triển hệ thống tổ chức và đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động. Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam phải thực sự là mái nhà chung, tập hợp, đoàn kết lực lượng doanh nhân trẻ, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của các doanh nhân trẻ.

Hoạt động của Hội Doanh nhân trẻ và đội ngũ doanh nhân trẻ Việt Nam dù ở bất cứ lĩnh vực, phạm vi nào cũng phải luôn bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ; đảm bảo tôn chỉ, mục đích; chú trọng xây dựng văn hóa doanh nghiệp, tạo dựng uy tín, thương hiệu; hướng đến sự phát triển của đất nước và cộng đồng xã hội.

Đa dạng hóa hình thức hoạt động, tăng cường liên kết, phát triển thị trường, chia sẻ thông tin, phân tán rủi ro, nâng cao năng lực của các thành viên; qua đó nâng tầm ảnh hưởng không chỉ trong nước mà còn vươn ra khu vực và thế giới.

Kịp thời đề xuất với Đảng, Nhà nước nhiều ý tưởng, sáng kiến trong quá trình hoạch định chủ trương, chính sách, tạo điều kiện cho các doanh nhân trẻ cống hiến và phát triển.

Ban Chấp hành Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam khóa VII ra mắt đại hội – Ảnh VGPXây dựng đội ngũ doanh nhân trẻ xứng đáng là những ‘chiến sĩ giỏi’ trên mặt trận kinh tế

Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện các chương trình hành động của mình, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam cần chú trọng xây dựng đội ngũ doanh nhân trẻ lớn mạnh về số lượng và chất lượng, xứng đáng là những “chiến sĩ giỏi” trên mặt trận kinh tế.

Đồng chí Lê Minh Khái mong các bạn doanh nhân trẻ thường xuyên học tập, rèn luyện trở thành những người có tâm, có tầm, đủ sức nghĩ lớn, nhìn xa vì sự phát triển của chính doanh nghiệp và đất nước; đủ bản lĩnh để đối mặt, vượt lên khó khăn, thách thức, đi tiên phong trên mọi lĩnh vực, nhất là về khoa học công nghệ và những ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn còn nhiều khó khăn.

Phó Thủ tướng đề nghị các doanh nhân trẻ cần tiếp tục nêu cao trách nhiệm xã hội, không ngừng đổi mới, sáng tạo, đoàn kết để chinh phục và cạnh tranh tốt trong môi trường toàn cầu, đưa doanh nghiệp Việt Nam đi xa hơn, hội nhập sâu hơn và mang lại thành công lớn to hơn.

Đồng chí Lê Minh Khái đề nghị Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tiếp tục quan tâm nhiều hơn nữa, thường xuyên đồng hành, định hướng, hỗ trợ hoạt động của Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam và lực lượng doanh nghiệp trẻ.

Đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp trong thanh niên để bổ sung lực lượng hùng hậu cho đội ngũ doanh nhân trẻ. Tổ chức nhiều hình thức phù hợp, thiết thực để khuyến khích, huy động doanh nhân trẻ thực hiện trách nhiệm xã hội, sẻ chia vì cộng đồng. Kịp thời tôn vinh, khen thưởng hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền khen thưởng xứng đáng những doanh nhân trẻ có nhiều đóng góp cho phong trào thanh niên và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Chính phủ sẽ tiếp tục đồng hành cùng các doanh nhân trẻ

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái khẳng định: “Với tinh thần xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động phục vụ nhân dân, phục vụ doanh nghiệp, trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân, Chính phủ sẽ tiếp tục đồng hành, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân trẻ khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng cho đất nước.

Đảng, Nhà nước và cộng đồng xã hội luôn tin tưởng rằng, với nhiệt huyết, trí tuệ, hoài bão và lòng tự hào dân tộc, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam sẽ phát huy những kết quả đã đạt được, tiếp tục vươn tới những thành công mới, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xứng đáng với sự tin yêu, kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân dành cho lực lượng doanh nhân trẻ Việt Nam”.

Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đồng chí Lê Minh Khái, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ chúc mừng những doanh nhân trẻ được Đại hội hiệp thương, bầu vào Ủy ban Trung ương Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam khóa VII, nhiệm kỳ 2022-2025.

Đồng chí Lê Minh Khái mong rằng, Ủy ban Trung ương Hội khóa VII sẽ kế thừa những kết quả, kinh nghiệm của nhiệm kỳ qua, lãnh đạo Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam ngày càng phát triển, xứng đáng với niềm tin và hy vọng của doanh nhân trẻ cả nước.

Phát huy vai trò Doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế

Đội ngũ doanh nhân bao gồm những người lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh khác. Trong những năm qua, đội ngũ này đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Đến nay, cả nước đã có gần 5 triệu doanh nhân hoạt động trong các doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh.

Doanh nhân Việt Nam xuất thân từ nhiều tầng lớp xã hội, chủ yếu từ công nhân, nông dân và trí thức, phần lớn trưởng thành trong chế độ mới, nhiều người là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Là người lãnh đạo, tổ chức quản lý doanh nghiệp. Riêng khu vực doanh nghiệp đã đóng góp trên 60% GDP, 70% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút trên 7,4 triệu lao động, chiếm 16,3% lực lượng lao động của toàn xã hội. Nếu tính cả khu vực của hộ kinh doanh thì mức đóng góp của các doanh nhân cho nền kinh tế còn cao hơn nhiều.

Tuy vậy cũng phải nghiêm túc nhìn nhận một thực tế là: số lượng và chất lượng đội ngũ doanh nhân chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Quy mô doanh nghiệp nước ta còn nhỏ bé, kém xa so với khu vực và thế giới, hiệu quả hoạt động chưa cao. Nhiều doanh nhân thiếu kiến thức về pháp luật và kinh doanh, thiếu kinh nghiệm quản lý và tính chuyên nghiệp, còn bị động trong cạnh tranh và hội nhập. Đội ngũ doanh nhân chưa xây dựng được văn hóa kinh doanh chung, chưa liên kết chặt chẽ trong hoạt động.

Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, cần xác định đội ngũ doanh nhân Việt Nam là đại diện cho sức sản xuất mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định để thực hiện mục tiêu chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh là bước đột phá góp phần thúc đẩy phát triển đất nước, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế của Việt Nam trong thời đại mới.

Để thúc đẩy phát triển đội ngũ doanh nhân, theo chúng tôi, cần thực hiện những nhiệm vụ và giải pháp sau :

Một là, thống nhất nhận thức về vai trò của đội ngũ doanh nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khuyến khích tinh thần kinh doanh trong xã hội, tôn vinh doanh nhân,  khẳng định sự cống hiến và bảo hộ thu nhập hợp pháp của doanh nhân. Xác định đúng quyền lợi, nghĩa vụ của doanh nhân đối với công cuộc phát triển đất nước.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng và thuận lợi để doanh nhân phát huy ý chí kinh doanh. Công khai minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, các chính sách hỗ trợ, để bảo đảm quyền lợi đầu tư và giảm rủi ro kinh doanh cho doanh nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền kinh doanh, tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh. Xây dựng pháp luật cho việc tạo lập đồng bộ các thị trường, nhất là thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường khoa học – công nghệ. Hoàn thiện pháp luật về tài chính công, cải cách pháp luật thuế. Hoàn thiện pháp luật về tài nguyên môi trường, bảo vệ người tiêu dùng. Nâng cao hiệu lực xét xử của tòa án, khuyến khích giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.

Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế đối thoại, tham vấn ý kiến của doanh nhân trong quá trình ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật. Tiếp tục cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm các cơ quan và người thi hành công vụ hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nhân.

Ba là, xây dựng hệ thống biện pháp hỗ trợ doanh nhân tham gia khu vực kinh doanh chính thức, mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp, chú trọng phát triển doanh nhân ở khu vực nông thôn.

Thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, quan tâm hỗ trợ khu vực hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp và đăng ký đầy đủ theo Luật Doanh nghiệp. Khuyến khích liên kết, mua bán và sáp nhập doanh nghiệp và áp dụng các biện pháp phù hợp để tăng nhanh số lượng doanh nghiệp có quy mô vừa, thúc đẩy hình thành và phát triển một số doanh nghiệp lớn, đủ sức thực hiện vai trò dẫn dắt, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thâm nhập thị trường thế giới thông qua các chuỗi sản xuất và cung ứng.

Triển khai các biện pháp hỗ trợ doanh nhân xúc tiến thương mại, đầu tư, nghiên cứu phát triển, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm dịch vụ. Cải thiện khả năng tiếp cận tài chính, công nghệ và thị trường của doanh nhân.

Bốn là, tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo và bồi dưỡng doanh nhân. Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình quốc gia về đào tạo doanh nhân, từng bước tiếp cận chuẩn mực quốc tế trong đào tạo quản trị kinh doanh.

Triển khai rộng khắp chương trình đào tạo về khởi sự doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nhân được trang bị những kiến thức cần thiết về kinh doanh, về pháp luật và trách nhiệm xã hội. Tổ chức thường xuyên các khóa đào tạo nâng cao và cập nhật kiến thức cho doanh nhân.

Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo về kinh tế và quản trị kinh doanh ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, ý thức trách nhiệm, sự trung thực, tinh thần hợp tác, ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng trong giáo dục công dân và đào tạo doanh nhân.

Năm là, đề cao văn hóa kinh doanh và trách nhiệm xã hội của doanh nhân, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Xây dựng những chuẩn mực của doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới các phẩm chất quan trọng: có lòng yêu nước, có tinh thần dân tộc, có khát vọng kinh doanh, có trách nhiệm với người lao động, với cộng đồng và xã hội, có văn hóa và tuân thủ pháp luật. Doanh nhân thân thiện với môi trường, thân ái với cộng đồng, thân thuộc với người lao động.

Sáu là, phát huy vai trò của hệ thống tổ chức đại diện của cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân. Tiếp tục xây dựng và củng cố Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thành một tổ chức chính trị – xã hội vững mạnh của đội ngũ doanh nhân. Mở rộng và liên kết hệ thống hiệp hội doanh nghiệp trong cả nước, triển khai đồng thời hai nhiệm vụ đại diện cho các doanh nghiệp và giới sử dụng lao động, xúc tiến hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong lĩnh vực quan hệ lao động, xây dựng quan hệ lao động thuận hòa; tăng cường quan hệ đối thoại, hợp tác giữa các cơ quan chính quyền với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các hiệp hội doanh nghiệp.

Bảy là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển đội ngũ doanh nhân. Xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược phát triển đội ngũ doanh nhân. Thể chế hóa đường lối chính sách đối với doanh nhân của Đảng bằng các chương trình hành động cụ thể.

Triển khai công tác phát triển Đảng, phấn đấu có tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp, ngành nghề giữ vị trí quan trọng của nền kinh tế. Nâng cao giác ngộ chính trị cho người sử dụng lao động và người lao động, bảo đảm cho hoạt động của doanh nghiệp, doanh nhân theo đúng chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Nghiên cứu việc bồi dưỡng và kết nạp những doanh nhân ưu tú thuộc mọi thành phần kinh tế, đủ tiêu chuẩn vào Đảng, trước mắt có thể thực hiện thí điểm ở một số địa phương, hiệp hội doanh nghiệp. Tăng cường đại diện của doanh nhân trong cơ cấu của các cơ quan thuộc hệ thống chính trị.

Hi vọng với những nhiệm vụ và giải pháp đồng bộ trên, cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân  Việt Nam sẽ có bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, xứng đáng với vai trò là người lính trong  thời bình.

Quy trình hoạch định chính sách công? Những nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng chính sách công?

 

Hoạch định chính sách công được xem là bước khởi đầu có tác động lớn đến toàn bộ quá trình chính sách; là quá trình xây dựng, hình thành nên chính sách công, từ việc phát hiện vấn đề chính sách, phân tích đánh giá, lựa chọn các phương án chính sách cho tới khi thông qua chính sách.

 

Mục lục bài viết

1. Khái quát về hoạch định chính sách công

Hoạch định chính sách công được xem là bước khởi đầu có tác động lớn đến toàn bộ quá trình chính sách; là quá trình xây dựng, hình thành nên chính sách công, từ việc phát hiện vấn đề chính sách, phân tích đánh giá, lựa chọn các phương án chính sách cho tới khi thông qua chính sách.

Cho đến nay, xung quanh các bước của quá trình hoạch định chính sách công vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính sách công được thừa nhận phổ biến hiện nay gồm các bước cơ bản sau: (i) thiết lập nghị trình chính sách; (ii) xây dựng và đề xuất phương án chính sách; (iii) hợp pháp hóa chính sách hay ban hành chính sách.

2. Thiết lập nghị trình chính sách:

Một trong những nhiệm vụ và chức năng quan trọng của chính sách công đó là giải quyết các vấn đề xã hội. Vì thế, vấn đề xã hội là nguồn gốc để thiết lập nghị trình chính sách. Trong xã hội hiện đại, thường xuất hiện nhiều vấn đề xã hội cùng lúc, vấn đề xã hội này xuất hiện kế tiếp vấn đề xã hội khác. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, không phải tất cả các vấn đề xã hội đều được giải quyết thông qua công cụ chính sách. Chỉ những vấn đề xã hội mà người làm chính sách nhận thấy cần thông qua công cụ chính sách để giải quyết thì mới được xem là vấn đề chính sách. Điểm cốt yếu ở bước này là làm thế nào để xác định “đúng” và “trúng” vấn đề xã hội cần giải quyết thông qua chính sách. Điều đó có nghĩa là cần xác định được vấn đề xã hội cần thiết phải ban hành chính sách để giải quyết, hạn chế được tình trạng có những vấn đề xã hội bức xúc nhưng người làm chính sách lại chậm trễ trong việc đưa vào nghị trình chính sách, hoặc có những vấn đề xã hội chưa thật sự bức thiết nhưng lại được ưu tiên đưa vào nghị trình chính sách. Theo quan điểm của James E. Anderson, việc một vấn đề xã hội nào đó được đưa vào nghị trình chính sách và trở thành vấn đề chính sách liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau, như vai trò của người lãnh đạo chính trị, sự kiện thu hút sự quan tâm của nhiều người, phản ánh và thái độ của người dân, phản ánh của truyền thông đại chúng. Trên thực tế, việc vấn đề xã hội được đưa vào nghị trình chính sách phụ thuộc vào vai trò của nhiều chủ thể khác nhau, như lãnh tụ chính trị, đảng cầm quyền, cơ quan dân cử, cơ quan hành chính, các đoàn thể chính trị – xã hội, các chuyên gia và nhà khoa học, công chúng, truyền thông đại chúng, sự xuất hiện của các sự kiện. Tuy liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau, song trong xã hội dân chủ, chính sách công với tư cách “đầu ra” của hệ thống chính trị nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, thì việc xác định nghị trình chính sách cũng cần phải dựa vào “đầu vào” là các nhu cầu và phản ánh của xã hội. Vì vậy, yêu cầu cốt lõi ở đây là các chủ thể có liên quan cần thông qua các phương thức nhau để xác định đúng và “trúng” vấn đề xã hội để đưa vào nghị trình chính sách. Đây là một phương diện cơ bản thuộc về tính trách nhiệm và tính đáp ứng của quản trị nhà nước với tư cách một trong những đặc trưng cơ bản của “quản trị tốt”.

3. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách:

Sau khi xác định được vấn đề xã hội nào đó, cần ban hành chính sách để giải quyết thì vấn đề xã hội trở thành vấn đề chính sách. Do đó, nhiệm vụ tiếp theo của bước này là, trên cơ sở phân tích vấn đề của chính sách để xây dựng và hình thành các phương án chính sách. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách là quá trình trên cơ sở nghiên cứu, phân tích đối với vấn đề chính sách để đề xuất biện pháp hoặc phương án chính sách tương ứng. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách gắn liền với nhiều nội dung, như phân tích vấn đề chính sách, xác định mục tiêu mà chính sách cần đạt được, thiết kế phương án, đánh giá đối với từng phương án và lựa chọn phương án phù hợp nhất. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách có ba đặc trưng sau:

– Mục đích của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách là giải quyết vấn đề chính sách cụ thể. Sự tồn tại khách quan của vấn đề chính sách là tiền đề và cơ sở của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách. Tính chất, phạm vi và mức độ của vấn đề chính sách quyết định nội dung chủ yếu của phương án chính sách;

– Nội dung cơ bản của xây dựng phương án chính sách là thiết kế phương án và lựa chọn phương án. Việc thiết kế phương án chính sách chính là nhằm giải quyết vấn đề chính sách; đó là việc dựa trên các phương pháp định tính và định lượng để đề xuất ra các phương án chính sách khác nhau. Trên cơ sở các phương án chính sách đó, người thiết kế chính sách thông qua việc phân tích, so sánh và luận chứng một cách đầy đủ để lựa chọn một phương án chính sách có khả năng thực hiện được mục tiêu của chính sách một cách tốt nhất. Khi thiết kế phương án chính sách, cần quan tâm đến mục tiêu chính sách. Mục tiêu chính sách rõ ràng hay không sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng phương án chính sách cũng như ảnh hưởng đến việc thực thi. Việc đánh giá và xác định phương án chính sách ưu tiên cần quan tâm phân tích và luận chứng tính khả thi của phương án chính sách (tính khả thi về chính trị, kinh tế, kỹ thuật, hành chính, pháp luật…); đồng thời cần đánh giá sự ảnh hưởng của nhân tố tương lai đối với chính sách;

– Xây dựng và đề xuất phương án chính sách vừa là một hoạt động nghiên cứu, vừa là một hành vi chính trị. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách là một quá trình hoạt động rất phức tạp. Một mặt, cần phát huy vai trò và sự tham gia của các nhà khoa học, tuân thủ các nguyên tắc, phương pháp khoa học để phân tích vấn đề chính sách, xác định mục tiêu chính sách, thiết kế phương án, đánh giá phương án và lựa chọn phương án phù hợp. Mặt khác, do chính sách liên quan đến việc điều chỉnh và phân phối lợi ích của những đối tượng liên quan trong xã hội, do đó cần coi trọng và đảm bảo sự tham gia của những đối tượng liên quan.

>> Xem thêm:  Chính sách công là gì ? Vai trò của chính sách công ?

4. Hợp pháp hóa chính sách:

Hợp pháp hóa chính sách hay ban hành chính sách được hiểu là cá nhân và cơ quan có thẩm quyền trên cơ sở quy định của pháp luật tiến hành đánh giá, thẩm tra để thông qua hoặc phê chuẩn phương án chính sách. Chẳng hạn, trên cơ sở thẩm định, thẩm tra và thảo luận đối với dự án luật do cơ quan có liên quan đệ trình, Quốc hội biểu quyết thông qua dự án luật đó. Tất cả dự thảo chính sách đều phải thông qua bước hợp pháp hóa này mới có hiệu lực thi hành. Nhìn chung, ở mỗi nước, pháp luật quy định khác nhau về trình tự, thủ tục và thẩm quyền của cơ quan và cá nhân trong việc thông qua một dự thảo chính sách, pháp luật. Ở nước ta, quy trình lập pháp được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hợp pháp hóa hay ban hành chính sách có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạch định chính sách công nói riêng và trong chu trình chính sách công nói chung, thể hiện ở chỗ: (i) hợp pháp hóa chính sách vừa là bước đặc biệt quan trọng trong hoạch định chính sách, vừa là tiền đề để thực thi chính sách. Nói cách khác, không có bước này thì không thể tiến hành thực hiện chính sách; (ii) hợp pháp hóa chính sách cũng là một yêu cầu, mắt khâu không thể thiếu để đảm bảo tính khoa học, tính dân chủ và tính hợp pháp của chính sách, là nguyên tắc không thể thiếu để thực hiện quản trị quốc gia theo pháp luật. Thông thường, chính sách được ban hành theo chế độ thủ trưởng và chế độ tập thể. Pháp luật quy định rõ trình tự ban hành chính sách theo chế độ tập thể và chế độ thủ trưởng. Tuy có những yêu cầu khác nhau đối với chính sách ban hành theo chế độ tập thể và chế độ thủ trưởng, song có một số lưu ý ở bước này đó là: (i) đảm bảo để chính sách được thông qua theo đúng trình tự theo quy định của pháp luật; (ii) đảm bảo nguyên tắc dân chủ, có nghĩa là đảm bảo việc thảo luận, tranh luận một cách công khai, dân chủ trong quá trình thẩm định dự thảo chính sách (đối với chính sách được ban hành thông qua chế độ tập thể) và tranh thủ ý kiến mang tính độc lập của các chuyên gia, tổ chức tư vấn đối với dự thảo chính sách (đối với chính sách được ban hành theo chế độ thủ trưởng).

5. Những nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng chính sách công

Những nguyên tắc cơ bản mà việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách cần tuân thủ là:

– Nguyên tắc đầy đủ về thông tin: Thông tin là cơ sở và căn cứ của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách; do đó, người thiết kế chính sách cần thông qua nhiều phương thức khác nhau để có được thông tin toàn diện và chính xác;

– Nguyên tắc hệ thống: Khi xây dựng và đề xuất phương án chính sách, người thiết kế chính sách cần xuất phát từ quan điểm hệ thống để phân tích tổng hợp đối với phương án chính sách, cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chỉnh thể và lợi ích bộ phận, giữa điều kiện bên trong và điều kiện bên ngoài, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa mục tiêu chủ yếu và mục tiêu thứ yếu. Đặc biệt, nguyên tắc hệ thống còn yêu cầu, người thiết kế chính sách cần thấy được mối quan hệ và sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chính sách, hạn chế tình trạng xung đột chính sách;

– Nguyên tắc dự báo khoa học: Có nghĩa là việc thiết kế và đề xuất phương án chính sách cần đặt nó trong xu thế vận động và nhu cầu của tương lai;

– Nguyên tắc khả thi: Có nghĩa là việc đề xuất và thiết kế phương án chính sách cần phân tích một cách toàn diện để xác định có khả thi hay không, nhất là với điều kiện và nguồn lực hiện tại, có thực hiện được hay không, hiệu quả có đảm bảo hay không;

– Nguyên tắc hợp pháp: Có nghĩa là việc thiết kế và đề xuất phương án chính sách cần phù hợp với pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế;

– Nguyên tắc dân chủ: Có nghĩa là, việc thiết kế và đề xuất bất cứ phương án chính sách nào cần phải xem liệu có lợi cho lợi ích công hay không, có phản ánh thật sự nhu cầu và lợi ích của người dân hay không. Nguyên tắc dân chủ còn yêu cầu việc thiết kế phương án chính sách cần công khai, minh bạch, cần đảm bảo sự tham gia của những đối tượng liên quan đối với quá trình này, nhất là phát huy vai trò và sự tham gia của các tổ chức tư vấn chính sách. Việc thực hiện tốt nguyên tắc dân chủ, nhất là đảm bảo tính công khai, minh bạch và sự tham gia của người dân có tác dụng quan trọng đối với việc thực hiện các nguyên tắc nói trên.

>> Xem thêm:  Phân tích các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ?

Cần nhìn nhận, đánh giá khách quan về vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới

Thứ hai, 15/11/2021

 (Mặt trận) – Doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều có vị trí, vai trò, đóng góp to lớn, quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đồng thời, doanh nghiệp và doanh nhân trong từng thành phần kinh tế cũng có những hạn chế, yếu kém nhất định. Bài viết nêu các giải pháp để xây dựng, phát triển, phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh mới. 

Doanh nhân và vai trò của doanh nhân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới

Trên cơ sở những chuyển biến tích cực trong đời sống thực tiễn của đất nước, từ việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI (năm 1986) của Đảng với tinh thần thừa nhận kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang xây dựng cơ chế quản lý có kế hoạch theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, Đại hội VII (năm 1991) của Đảng đặt vấn đề: xây dựng đội ngũ trí thức, nhà kinh doanh, người quản lý, chuyên gia công nghệ và công nhân lành nghề để đảm đương, gánh vác nhiệm vụ trước mắt và chuẩn bị tốt cho đất nước và thế hệ trẻ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI1. Tiếp đó, Đại hội VIII (năm 1996), Đảng sử dụng khái niệm “nhà doanh nghiệp”, “nhà kinh doanh” với chủ trương: “Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ǎn lâu dài”2. Đại hội IX (năm 2001), Đảng nêu chủ trương rất sáng rõ và sâu sắc: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế… Tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc, xoá bỏ mọi trở lực để khơi dậy nguồn lực to lớn trong dân, cổ vũ các nhà kinh doanh và mọi người dân ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước3. Ngày 20/9/2004 Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 990/QĐ-TTg lấy ngày 13/10 hằng năm làm Ngày Doanh nhân Việt Nam. Văn kiện Đại hội X (năm 2006) dùng thuật ngữ “doanh nhân” và khẳng định doanh nhân là bộ phận cấu thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội XI (năm 2011) sử dụng khái niệm “đội ngũ doanh nhân” với định hướng, chủ trương: “Phát huy tiềm năng và vai trò tích cực của đội ngũ doanh nhân trong phát triển sản xuất kinh doanh; mở rộng đầu tư trong nước và nước ngoài; tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, hàng hoá, dịch vụ cho đất nước và xuất khẩu; đóng góp cho ngân sách nhà nước; nâng cao chất lượng sản phẩm; tạo dựng và giữ gìn thương hiệu hàng hoá Việt Nam; đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”4. Ngày 9/12/2011 Bộ chính trị khóa XI ra Nghị quyết số 09-NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Hiến pháp 2013, tại khoản 3 Điều 51 khẳng định: Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.

Qua hơn 35 năm đổi mới, đội ngũ doanh nhân Việt Nam không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Trước năm 1991 (khi Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 và Luật Công ty năm 1990 chưa có hiệu lực) chỉ có khoảng 5.000 doanh nghiệp. Hiện nay, với gần 800.000 doanh nghiệp và hơn 5,4 triệu hộ kinh doanh, theo đó, số lượng doanh nhân tham gia lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh lên đến hàng triệu người5. Trong thời kỳ đổi mới, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đã có những đóng góp to lớn, quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên nhiều phương diện, trước hết là về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Về kinh tế, với việc đầu tư sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, khai thác, sử dụng các nguồn lực, phát triển lực lượng sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng của thị trường trong nước và thế giới, doanh nhân Việt Nam chính là lực lượng xung kích, chủ lực trong việc thay đổi cơ cấu kinh tế quốc dân, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa độc lập, tự chủ, hội nhập quốc tế góp phần quan trọng đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Khu vực doanh nghiệp đóng góp trên 60% GDP, khoảng 70% thu ngân sách nhà nước6.

Về chính trị, doanh nhân không chỉ tham gia với tư cách công dân, doanh nghiệp thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, nhất là về lĩnh vực kinh tế, mà họ còn tham gia ngày càng hiệu quả vào đời sống chính trị của các địa phương, của đất nước trong việc xây dựng, góp ý, giám sát, phản biện, quyết định chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chính quyền địa phương với tư cách là các tổ chức xã hội – nghề nghiệp, thành viên của các tổ chức chính trị – xã hội, là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

Về xã hội, doanh nhân là lực lượng chủ lực, tiên phong tạo ra nhiều công ăn việc làm, sinh kế cho người lao động, qua đó, góp phần xóa đói, giảm nghèo. Sự ra đời, phát triển, lớn mạnh của doanh nhân góp phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển cơ cấu xã hội và quan hệ xã hội mới, trong đó, doanh nhân là một bộ phận cấu thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc; doanh nhân là mắt xích không thể thiếu trong các liên kết, hợp tác kinh tế, xã hội giữa nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà máy, nhà khoa học, nhà ngân hàng, nhà nông. Doanh nhân, doanh nghiệp không chỉ góp phần quan trọng trong việc tạo ra tăng trưởng kinh tế, gia tăng ngân sách – điều kiện, tiền đề vật chất để thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm phát triển kinh tế gắn liền với phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội mà doanh nghiệp, doanh nhân còn trực tiếp tham gia thực hiện nhiều hoạt động xã hội, từ thiện, trong đó có hoạt động đền ơn, đáp nghĩa.

Về văn hóa, doanh nhân Việt Nam hiện nay kết tinh và tiêu biểu cho ý chí, nghị lực nỗ lực xóa đói, thoát nghèo, vươn lên làm giàu của dân tộc Việt Nam. Sự phát triển, lớn mạnh của đội ngũ doanh nhân đã tạo ra những phẩm chất, giá trị văn hóa, lối sống mới: tự lập, tự chủ, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với khó khăn, dám chấp nhận rủi ro, có chí làm giàu, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội, đất nước. Doanh nhân được xã hội ngưỡng mộ, tôn vinh; họ như là “anh hùng thời đại”, nhân vật trung tâm của thời kỳ phát triển mới của đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Doanh nhân giàu có, thành đạt trở thành mục tiêu phấn đấu của không ít người, nhất là giới trẻ; họ nuôi khát vọng, ý chí làm giàu, dấn thân, lập thân lập nghiệp, cống hiến bằng con đường kinh doanh.

Đại đa số doanh nghiệp, hầu hết doanh nhân làm ăn chân chính, bản lĩnh, sáng tạo đang nỗ lực vươn mình vượt qua khó khăn, thách thức để đổi mới, phát triển, nâng tầm góp phần hiện thực hóa khát vọng vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; họ xem trách nhiệm với người lao động, với đối tác, với khách hàng, với người tiêu dùng và với nhà nước, cộng đồng xã hội là những yếu tố đem lại chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và làm nên thương hiệu của doanh nghiệp. Qua sàng lọc khắc nghiệt của thị trường đa số doanh nghiệp phát triển, đa số doanh nhân thành công, qua đó đóng góp to lớn trên nhiều phương diện cho sự thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những yếu kém, hạn chế của doanh nghiệp, doanh nhân và pháp luật cũng đã và đang xử lý những doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn phi pháp, thiếu trách nhiệm xã hội. Những hạn chế, yếu kém đó do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân sâu xa từ điều kiện kinh tế – xã hội nông nghiệp, chưa có truyền thống kinh doanh; có nguyên nhân do sự mới mẻ, hấp dẫn của kinh tế thị trường cùng với những yếu tố tự phát, tiêu cực chứa đựng rủi ro của nó; có nguyên nhân từ hạn chế về tri thức, trình độ văn hóa, năng lực kinh doanh, ý thức pháp luật của doanh nhân; có nguyên nhân từ những bất cập của luật pháp và công tác quản lý nhà nước… Cả lịch sử và logic đều cho thấy, với một nền kinh tế mới chuyển đổi, kể cả một nền kinh tế thị trường “hoàn hảo”, “đầy đủ” với lịch sử phát triển hàng trăm năm thì vẫn không tránh khỏi những hạn chế, bất cập ít nhiều tương tự.

Thực tế cho thấy, vai trò, đóng góp to lớn không thể phủ nhận của khối doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân trong nhiều lĩnh vực đời sống, trước hết là lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, dẫu “một người lo bằng cả kho người làm” thì cũng không phải doanh nhân tự mình, riêng mình bằng lao động quản lý, điều hành có thể tạo ra đóng góp ấy, mà đó là thành quả tổng hợp được tạo ra không chỉ bằng lao động vật chất trực tiếp có tính chất quyết định của hàng triệu công nhân, lao động, mà còn bằng sự hỗ trợ, định hướng, dẫn đường của Đảng, Nhà nước thông qua việc xây dựng chính sách, thể chế phát triển kinh tế – xã hội, các hoạt động đối ngoại, xúc tiến đầu tư, thương mại, đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại…

Về kinh tế tư nhân gắn liền với đội ngũ doanh nhân trong khu vực kinh tế này (với sự phát triển, lớn mạnh và những đóng góp to lớn đối với đất nước: chiếm tỉ trọng 39 – 40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động xã hội, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội), Đảng ta khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế”7. Tuy nhiên, không thể vì vai trò quan trọng đó mà xem nhẹ doanh nghiệp nhà nước, phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và cổ vũ cho tư nhân hóa. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, việc tư nhân hóa là vấn đề rất phức tạp, có thành công nhưng rủi ro, thất bại cũng rất nhiều. Do đó, cả về thực tế và định hướng, Đảng đã rất đúng đắn khi khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ”8.

Về doanh nghiệp nhà nước9 và doanh nhân trong khu vực này, trong nhiều năm qua phải đối mặt với những khó khăn, yếu kém, nhất là tình trạng tham nhũng, làm ăn thua lỗ gây thất thoát nhiều tiền bạc, tài sản của nhà nước, của nhân dân và tổn hại nghiêm trọng uy tín của doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước. Tuy nhiên, những năm gần đây, cùng với sự điều chỉnh, đổi mới chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về doanh nghiệp nhà nước, kể cả việc kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, doanh nhân yếu kém, tham nhũng, các doanh nghiệp nhà nước và đội ngũ doanh nhân trong khu vực này đã có đổi mới, vượt qua khó khăn, thích ứng với kinh tế thị trường và bước đầu đạt những kết quả quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước và doanh nhân trong khu vực này đã có những đóng góp quan trọng trên nhiều phương diện góp phần để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân: đóng góp khoảng 28% cho tăng trưởng, tạo việc làm cho 1,2 triệu lao động (8,3%); giữ vai trò chi phối trong một số ngành, lĩnh vực nền tảng cho tăng trưởng, phát triển như năng lượng, tài chính, tín dụng, ngân hàng, viễn thông, xuất khẩu lương thực, hàng không…; đi đầu trong đầu tư vào những vùng khó khăn, những lĩnh vực đầu tư có tỷ suất lợi nhuận thấp; và đồng thời với nhiệm vụ kinh doanh, các doanh nghiệp nhà nước thực hiện nhiệm vụ chính trị – xã hội, hỗ trợ cộng đồng, tham gia thực hiện an sinh xã hội, bảo đảm ổn định chính trị xã hội, an ninh, quốc phòng, chủ quyền quốc gia. Hiện nay, trong bối cảnh thực hiện “mục tiêu kép”, vừa chống đại dịch Covid-19 vừa phát triển kinh tế – xã hội, doanh nhân trong khu vực doanh nghiệp nhà nước tiếp tục khẳng định vai trò to lớn góp phần để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.

Giải pháp tiếp tục xây dựng, phát triển và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay

Cách đây 10 năm, ngày 9/12/2011, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế với 7 nhóm phương hướng, nhiệm vụ: 1) Nâng cao nhận thức về vai trò của đội ngũ doanh nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; 2) Tạo môi trường sản xuất, kinh doanh bình đẳng, thuận lợi cho doanh nhân; 3) Hỗ trợ doanh nhân mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, khuyến khích phát triển doanh nhân khu vực nông thôn; 4) Quan tâm, tạo chuyển biến trong đào tạo và bồi dưỡng doanh nhân; 5) Đề cao đạo đức, văn hoá kinh doanh, trách nhiệm xã hội, tinh thần dân tộc của đội ngũ doanh nhân, xây dựng quan hệ lao động hài hòa; 6) Phát huy vai trò của các tổ chức đại diện của cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân; 7) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân. Với tư duy, tầm nhìn chiến lược đúng đắn, về cơ bản, 7 nhóm phương hướng, nhiệm vụ trên đây vẫn nguyên giá trị chỉ đạo, định hướng cho việc triển khai các giải pháp cụ thể để tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

Qua hơn 35 năm đổi mới, tình hình đất nước, vị thế, tiềm lực, uy tín của đất nước khác nhiều so với 10 năm trước. Bối cảnh quốc quốc tế cũng có những đổi thay to lớn, nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Sự đan xen thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức trong bối cảnh mới đặt ra những vấn đề mới, yêu cầu mới, nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kể cả việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam cả về số lượng và chất lượng. Với tinh thần đó, Đại hội XIII của Đảng khẳng định chủ trương: “Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi. Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho doanh nhân khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng. Khuyến khích doanh nhân thực hiện trách nhiệm xã hội và tham gia phát triển xã hội. Tôn vinh, khen thưởng kịp thời, xứng đáng những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”10…

Triển khai thực hiện chủ trương đó cần nhiều giải pháp cụ thể, đồng bộ. Trong đó, cần chú trọng 3 giải pháp đột phá.

Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện môi trường, thể chế đầu tư, phát triển đất nước nhanh, bền vững, trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là hệ thống chính sách, pháp luật tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng bảo vệ, khuyến khích doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn chân chính, đổi mới sáng tạo; ngăn ngừa, thải loại doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn phi pháp.

Thứ hai, tổ chức thực hiện tốt chủ trương, chính sách, pháp luật; khẳng định, bảo vệ, tạo điều kiện, khuyến khích, vinh danh, khen thưởng xứng đáng những doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn chân chính, có đóng góp lớn đối với xã hội, đất nước; kịp thời ngăn chặn, xử lý nghiêm minh những doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn phi pháp gây thiệt hại cho đất nước, cộng đồng xã hội, người lao động, người sử dụng hàng hóa, dịch vụ.

Thứ ba, để thực hiện có hiệu quả hai đột phá trên, điện kiện đầu tiên và xuyên suốt là xã hội và bản thân đội ngũ doanh nhân phải nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc về doanh nhân, về vị trí, vai trò của doanh nhân trong công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Khơi dậy, khuyến khích, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, khát vọng làm giàu chân chính trong xã hội. Nhận thức đúng, sâu sắc về quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nhân, sự gắn bó hữu cơ giữa mục tiêu, khát vọng làm giàu chân chính với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và doanh nhân. Khắc phục những nhận thức phiến diện, định kiến; phê phán những nhận thức sai trái, lệch lạc về các thành phần kinh tế, xã hội, trong đó có các bộ phận doanh nhân trong các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

Nguyễn Anh Tuấn

TS, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Chú thích:

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 51, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr 189.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 55, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr 376.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 60, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr 243.
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 242.
  5. Xem Doanh nhân Việt Nam – Thành quả của công cuộc đổi mới, tại trang: https://dangcongsan.vn/kinh-te/doanh-nhan-viet-nam-thanh-qua-cua-cong-cuoc-doi-moi-565492.html.
  6. Nguyễn Chí Hải: Nhận diện đội ngũ doanh nhân Việt Nam thế kỷ XXI, tại trang: https://doanhnhansaigon.vn/chan-dung-doanh-nhan/nhan-dien-doi-ngu-doanh-nhan-viet-nam-the-ky-xxi-1096743.html.

7,8. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

  1. Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước được cấu thành bởi: 1) Bộ phận doanh nghiệp gồm các doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và doanh nghiệp mà Nhà nước nắm cổ phần hoặc phần vốn chi phối; 2) Bộ phận phi doanh nghiệp: các tài sản thuộc sở hữu nhà nước, đất đai, rừng, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia…
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr. 168.

ĐƯA NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG VÀO CUỘC SỐNG

Thứ Hai, 11/10/2021 12:53′(GMT+7)

Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh mới

(TG) – Là đại diện cho sức sản xuất mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong công cuộc đổi mới, đội ngũ doanh nhân Việt Nam đã và đang trở thành lực lượng xung kích, đóng góp không nhỏ vào những thành tựu của đất nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam lần thứ VI

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: doanh nhân là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và “Công – Thương cứu quốc đoàn” là một thành viên của Mặt trận Việt Minh. Trong suốt tiến trình cách mạng, đội ngũ doanh nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh, phát triển, đã và đang trở thành lực lượng xung kích trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Công cuộc đổi mới ở nước ta đang bước vào giai đoạn mới trong bối cảnh tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, mang lại nhiều cơ hội, thuận lợi, nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức cho phát triển nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam. Đội ngũ doanh nhân là đại diện cho sức sản xuất mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển đội ngũ doanh nhân là bước đột phá góp phần phát triển kinh tế – xã hội, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế của Việt Nam trong thời kỳ mới. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi”(1). Để phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam đáp ứng với mục tiêu, yêu cầu đó trong bối cảnh mới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:

Một làtiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi cho doanh nghiệp.

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu có tính đột phá cả trước mắt và cơ bản lâu dài. Chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự bảo đảm chính trị – pháp lý, là điều kiện, môi trường tiên quyết để hoạt động của doanh nhân và doanh nghiệp là một thể thống nhất. Không thể có đội ngũ doanh nhân phát triển nếu như điều kiện chính trị – pháp lý, môi trường kinh doanh thiếu khoa học, xơ cứng, trì trệ, xa rời thực tiễn sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Mặt khác, chỉ khi các doanh nghiệp hoạt động tốt, có hiệu quả thì đội ngũ doanh nhân mới trưởng thành về mọi mặt.

Không thể có đội ngũ doanh nhân phát triển nếu như điều kiện chính trị – pháp lý, môi trường kinh doanh thiếu khoa học, xơ cứng, trì trệ, xa rời thực tiễn sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường.

Thực tiễn đổi mới cho thấy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, còn những hạn chế nhất định: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển…”(2).

Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh

Để phát huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế và thích ứng với bối cảnh mới, Đảng ta chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Huy động, sử dụng các nguồn lực thực hiện theo cơ chế thị trường. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành”(3). Đồng thời, “Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho doanh nhân khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng”(4). Theo đó, cần xây dựng chiến lược, hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, trọng tâm là đất, nước và khoáng sản. Xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách và cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu, dự báo, cảnh báo thiên tai, ô nhiễm và thảm họa môi trường, dịch bệnh. Ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường. Chủ động, tích cực hợp tác quốc tế trong việc chia sẻ thông tin, phối hợp bảo đảm an ninh sinh thái, an ninh môi trường, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng. Công khai minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển. Nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền kinh doanh, tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh. Tiếp tục cải cách hành chính, bảo đảm các cơ quan và người thi hành công vụ hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nhân. Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế đối thoại, tham vấn ý kiến của doanh nhân trong quá trình ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật.

Hai là, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân. 

Đảng ta khẳng định: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài”(5); đồng thời, “đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc,…”(6). Phát triển đội ngũ doanh nhân trên cơ sở phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao được đào tạo bài bản, có tri thức, tính sáng tạo vượt trội, được trải nghiệm trong thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp với cơ chế thị trường, thích ứng với sự phát triển cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ nguồn lực ấy, mới sản sinh ra những doanh nhân có phẩm chất, trí tuệ, năng lực, bản lĩnh trên cơ sở nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước, cũng như từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp. Bởi vậy, cần xây dựng và triển khai thực hiện chương trình quốc gia về đào tạo doanh nhân, từng bước tiếp cận chuẩn mực quốc tế. Ðổi mới chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo về kinh tế và quản trị kinh doanh ở các học viện, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trong đó, chú trọng giáo dục, rèn luyện và hun đúc cho doanh nhân “tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ”, ý thức thượng tôn pháp luật, có trách nhiệm với sự phát triển xã hội, tính trung thực, tinh thần hợp tác, ý thức cộng đồng cao. Cập nhật, bổ sung hệ thống tri thức mới về quản trị, kinh doanh trong điều kiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, hệ thống giáo trình, tài liệu nghiên cứu, học tập; đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật và môi trường đào tạo, bồi dưỡng hiện đại. Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng ở các cơ sở giáo dục, đào tạo quốc gia với đào tạo, bồi dưỡng tại các tập đoàn doanh nghiệp và doanh nghiệp; giữa đào tạo, bồi dưỡng trong nước với đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài; giữa đào tạo và tự đào tạo để phát triển doanh nhân.

Cùng với nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân, cần “Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới, hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và khả năng thích ứng, chống chịu của nền kinh tế, lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo”(6). Đó là điều kiện quan trọng để phát triển trình độ, năng lực đội ngũ doanh nhân.

Ba làxây dựng văn hóa doanh nhân Việt Nam hiện đại, giàu bản sắc dân tộc.

Xây dựng những chuẩn mực mới về văn hóa doanh nghiệp phù hợp với chuẩn mực xã hội và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thời kỳ hội nhập. Trong đó, xây dựng văn hóa doanh nhân là hạt nhân. Đó là những doanh nhân có trí tuệ, tri thức chuyên môn sâu rộng, có ý chí khát vọng vươn lên làm giàu cho bản thân và đất nước, có lòng tự tôn dân tộc, có năng lực cạnh tranh và khả năng hội nhập, có đạo đức kinh doanh, năng lực quản lý hiện đại, giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích doanh nghiệp lợi ích nhà nước và xã hội. Ðề cao văn hóa kinh doanh và trách nhiệm xã hội của doanh nhân, “Khuyến khích doanh nhân thực hiện trách nhiệm xã hội và tham gia phát triển xã hội”(7). Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, tích cực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Tăng cường và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền để thay đổi nhận thức của xã hội đối với doanh nhân, cũng như tạo hình ảnh của họ trong chế độ XHCN.

Bốn là, phát huy vai trò các tổ chức đại diện của cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân.

Đến nay nước ta có hơn 7.000 doanh nghiệp, trên 5 triệu doanh nhân. Sự gia tăng nhanh chóng của đội ngũ doanh nhân gắn với sự phát triển doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, đã hình thành nên các tổ chức đại diện của cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và tiến trình thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa ở ở nước ta, thì tất yếu các tổ chức đại diện của doanh nghiệp và doanh nhân ngày càng phát triển. Vì thế, cần phát huy vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, Hội doanh nhân Việt Namtrong việc “kết nối, sẻ chia và lan tỏa” các giá trị tri thức, công nghệ, kinh nghiệm và lợi ích từ sự phát triển. Tổ chức thành lập và liên kết hiệp hội doanh nghiệp tích cực tham gia hoạt động chính trị, xã hội; tập hợp và phản ánh nguyện vọng, ý kiến, kiến nghị của doanh nhân, tham mưu cho Ðảng và Nhà nước về các chính sách kinh tế – xã hội; thực hiện các biện pháp thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, doanh nhân. Phát triển các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề và nâng cao vai trò, trách nhiệm trong liên kết chuỗi sản xuất, kinh doanh, đổi mới dây truyền công nghệ hiện đại, chia sẻ những kinh nghiệm về quản trị, kinh doanh. Trên cơ sở đó giúp cho doanh nhân có cơ hội học tập lẫn nhau, rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn, nâng cao năng lực tư duy, hoạch định chiến lược phát triển doanh nghiệp và thực hiện trách nhiệm xã hội.

Năm là, thực hiện tốt chính sách tôn vinh những doanh nhân giỏi, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thực hiện tốt giải pháp này tạo ra động lực phát huy khát vọng cống hiến của doanh nhân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính sách tôn vinh doanh nhân không chỉ thừa nhận những thành tích cá nhân, mà còn khẳng định vị thế, vai trò, trách nhiệm xã hội, chính trị của của đội ngũ doanh nhân đối với đất nước. Những doanh nhân chân chính không chỉ có khát vọng làm giàu cho cá nhân, gia đình mà là khát vọng phát triển đất nước, dân tộc cường thịnh. Bởi vậy, cần đổi mới và thực hiện tốt nhiều chính sách tôn vinh những doanh nhân không những thành đạt trong kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, mà còn có đóng góp nguồn thu nhân sách cho nhà nước và các hoạt động từ thiện, nhân đạo… để ngày càng lan tỏa những “Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu”, “Nhà quản lý giỏi”. Ngoài ra, thường xuyên lắng nghe và giải quyết kịp thời tâm tư nguyện vọng của doanh nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho họ hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm giàu chính đáng, đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội.

Những doanh nhân chân chính không chỉ có khát vọng làm giàu cho cá nhân, gia đình mà là khát vọng phát triển đất nước, dân tộc cường thịnh.

Sáu là, phát huy tính tích cực, chủ động, tự phát triển của doanh nhân.

Mỗi doanh nhân là đối tượng phát triển, đồng thời là chủ thể của quá trình phát triển đội ngũ doanh nhân. Sự tác động của các chủ thể khác bằng nhiều con đường, giải pháp chỉ có hiệu lực, hiệu quả khi mỗi doanh nhân có ý thức làm chủ và tự chủ trong phát triển trình độ, năng lực, là tế bào để phát triển đội ngũ. Vì thế, mỗi doanh nhân cần đề cao ý thức học tập và tự học tập, tự đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ học vấn, trình độ chính trị, pháp luật, văn hóa, chuyên môn. Thường xuyên cập nhật, tận dụng cơ hội, nắm bắt và làm chủ hệ thống tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, ửng dụng vào quản lý, kinh doanh; trau dồi những kỹ năng cần thiết để đủ sức “đứng vững” và nâng cao năng lực cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, doanh nhân phải không ngừng tự bồi dưỡng, rèn luyện tác phong, phương pháp của nhà lãnh đạo, nhà quản lý với những chuẩn mực văn hóa tiến bộ, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc./.

Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh mới là một tất yếu khách quan. Đòi hỏi, phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, phát huy vai trò của các chủ thể, trong đó tự phát triển của mỗi doanh nhân là yếu tố quyết định đến kết quả cuối cùng, vì một Việt Nam phát triển và cường thịnh

 

Đại tá, PGS. TS. Lê Xuân Thủy

Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng

‘Cả hệ thống chính trị đồng hành cùng doanh nhân, doanh nghiệp’

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10), chiều tối 12/10, tại Nhà Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ gặp mặt đại diện lãnh đạo các doanh nghiệp tiêu biểu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ nhân dịp các doanh nhân tham Diễn đàn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam và vinh danh các thương hiệu mạnh.

Cùng tham dự có Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường, lãnh đạo một số Ủy ban của Quốc hội, lãnh đạo Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam…

Tại cuộc gặp mặt, đại diện các doanh nghiệp như lãnh đạo Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), Tổng Công ty May 10, Tập đoàn Masan cho biết thời gian qua, để tháo gỡ một phần khó khăn, vướng mắc, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã kịp thời điều chỉnh một số cơ chế, chính sách, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong tình hình dịch COVID-19; đồng thời đề nghị Quốc hội, Chính phủ tạo điều kiện để doanh nghiệp xây dựng phát triển năng lực hạ tầng mạng lưới viễn thông ở các địa bàn có điều kiện kinh tế khó khăn, hỗ trợ người dân nghèo tiếp cận thiết bị thông minh nhằm thúc đẩy các hoạt động xây dựng xã hội số, chính quyền số.

Đại diện các doanh nghiệp đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét ưu đãi thuế, thúc đẩy ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, chuyển đổi số, ban hành chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thanh toán không dùng tiền mặt, tạo khuôn khổ hành lang pháp lý cho việc chuyển đổi số quốc gia; có chính sách hỗ trợ về việc tạo ra các chuỗi cung ứng, phát triển xu thế kinh doanh offline lên online…

Quyền Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông quân đội (Viettel), Thiếu tướng Lê Đăng Dũng cho rằng trong đại dịch COVID-19 đã có rất nhiều cuộc họp bàn cách hỗ trợ doanh nghiệp được tổ chức. Các cuộc họp đều nói nhiều về hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, đây là điều rất cần thiết, nhưng ít đề cập tới khía cạnh giúp doanh nghiệp tận dụng cơ hội từ sau đại dịch – điều có tầm quan trọng không kém.

[Thủ tướng: Khẩn trương, tập trung hỗ trợ thúc đẩy sản xuất kinh doanh]

Cụ thể, đại dịch đã tạo động lực rất lớn thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, vì trong đại dịch mọi thứ đều có thể thực hiện trực tuyến hóa, tự động hóa, số hóa để phù hợp với tình trạng bình thường mới. Tuy nhiên trong 2 năm qua, chuyển đổi số ở nước ta vẫn còn ít và chậm. Nếu tiếp tục chậm, khi đại dịch lắng xuống, chúng ta sẽ bị tụt hậu so với thế giới. Nguyên nhân chủ yếu là do hành lang pháp lý, cơ chế, chính sách còn chậm, chưa theo kịp với cái mới, cái tiên tiến. Để khắc phục tình trạng này, cần cấp phép kịp thời cho các dịch vụ công nghệ mới, đồng thời tạo hành lang pháp lý để các doanh nghiệp số phát triển…

Các doanh nghiệp cũng đề xuất Chủ tịch Quốc hội, các đại biểu Quốc hội phát huy hơn nữa vai trò giám sát của Quốc hội trong việc thực thi chính sách, nhằm đảm bảo sự phù hợp và hiệu quả của các chính sách, tạo thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp, người lao động, phục hồi sản xuất, kinh doanh…

Ghi nhận ý kiến của các doanh nghiệp, theo Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp, phát huy vai trò của doanh nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, không chỉ là doanh nghiệp trong nước, mà cả các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.

Quốc hội đã từng bước hoàn thiện khung khổ pháp luật cho sự gia nhập thị trường, thúc đẩy hoạt động đầu tư kinh doanh, cạnh tranh, tăng cường kỷ luật thị trường, bảo đảm giao kết hợp đồng, xây dựng cơ chế rút lui khỏi thị trường thuận tiện và giải quyết tranh chấp có hiệu quả.

Chủ tịch Quốc hội đánh giá đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp từng bước lớn mạnh cả về số lượng, quy mô lẫn chất lượng, đóng góp to lớn vào những thành tựu phát triển của đất nước. Đến nay, Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp lớn mạnh, nhiều doanh nhân thành đạt với nhiều thương hiệu mạnh, hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, tạo việc làm cho người lao động và các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo.

Nhấn mạnh rằng đại dịch COVID-19 đã và đang tác động tiêu cực đến mọi khía cạnh của đời sống kinh tế-xã hội, Chủ tịch Quốc hội ghi nhận đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã phát huy tinh thần đoàn kết, ý thức trách nhiệm, tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo thích ứng với điều kiện khó khăn, vượt qua những thách thức do đại dịch mang lại. Trong bối cảnh ấy, nhiều doanh nghiệp, doanh nhân vẫn không quên trách nhiệm với cộng đồng xã hội, chung tay cùng các cấp chính quyền trong công tác phòng, chống dịch.

Chủ tịch Quốc hội đánh giá cao sáng kiến Diễn đàn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và vinh danh các thương hiệu mạnh Việt Nam được duy trì gần 20 năm qua. Đây là nơi hội tụ của các doanh nghiệp cả nước, cùng trao đổi kinh nghiệm, hợp tác sản xuất, kinh doanh, phản ánh những tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp và hiến kế của doanh nghiệp, doanh nhân, cũng như giới chuyên gia kinh tế tới các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý và lãnh đạo các địa phương.

Hoan nghênh ý kiến của Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phan Xuân Dũng và ý kiến của các lãnh đạo doanh nghiệp tại cuộc gặp mặt, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho rằng thời gian tới, cần quyết tâm cao hơn nữa trong việc thực hiện các biện pháp nhằm kịp thời khắc phục tác động của dịch bệnh, giảm thiểu thiệt hại, từng bước tái thiết và khôi phục kinh tế.

“Trong kế hoạch tái cơ cấu kinh tế của 5 năm tới cũng như trong kế hoạch bắt đầu từ năm 2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận, thống nhất rất cao đặt cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chương trình tổng thể thích ứng, phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, tăng tính tự chủ của nền kinh tế, tăng khả năng chống chịu, thích ứng với biến cố, những cú sốc do bất ổn kinh tế vĩ mô ở bên ngoài hoặc những vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu hay dịch bệnh,” Chủ tịch Quốc hội nói.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tặng quà lưu niệm cho các đại biểu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh cùng với những thách thức, đại dịch COVID-19 đang mang lại những cơ hội mới cho sự phát triển, các doanh nhân, doanh nghiệp cần tham gia tích cực, tạo đột phá trong thị trường khoa học, công nghệ, trong đó các doanh nghiệp công nghệ đóng vai trò vô cùng quan trọng; đồng thời mong cộng đồng doanh nghiệp đóng góp ý kiến về việc làm thế nào để cải thiện các điều kiện để tăng cường năng lực của thị trường vốn, thị trường khoa học-công nghệ và thị trường lao động; cải thiện các yếu tố để tăng năng lực hấp thụ vốn của nền kinh tế; thể chế, chính sách thúc đẩy năng lực đổi mới sáng tạo.

Chủ tịch Quốc hội cho rằng trong thời gian tới, cần quyết tâm cao hơn nữa trong việc thực hiện các biện pháp nhằm kịp thời khắc phục tác động của dịch bệnh, giảm thiểu thiệt hại, từng bước tái thiết và khôi phục kinh tế.

Về phía Nhà nước, bên cạnh việc tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ đã ban hành, Chủ tịch Quốc hội cho biết trong tuần này, sẽ làm việc với Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính-Ngân sách, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và một số cơ quan liên quan rà soát lại dư địa của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để nghiên cứu, xây dựng gói hỗ trợ tái thiết kinh tế.

Khẳng định Đảng, Quốc hội, Chính phủ và cả hệ thống chính trị luôn đồng hành cùng các doanh nhân, doanh nghiệp, thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội kêu gọi các doanh nhân, doanh nghiệp tích cực hơn nữa nâng cao trình độ, kiến thức toàn diện, chú trọng phẩm chất đạo đức, ý thức công dân, trách nhiệm xã hội và tinh thần dân tộc; xây dựng tầm nhìn chiến lược, bản lĩnh, tư duy đột phá, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới; nuôi dưỡng hoài bão lớn và khát vọng vươn lên góp phần nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh; chú trọng hơn nữa vào quản trị doanh nghiệp, đóng góp vào sự phát triển nhanh, bền vững và nâng cao năng lực tự chủ, tự cường của nền kinh tế./.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ gặp mặt Đoàn đại biểu dự Diễn đàn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp năm 2021. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

PrevNext

Hoàng Thị Hoa (TTXVN/Vietnam+)

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA DOANH NHÂN VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN

 Ngày 13-10-2021

Xem cỡ chữ:

 In  Gửi tới bạn

  1. Nguyễn Thị Chúc Huyền – GV Khoa Nhà nước và pháp luật
  2. Doanh nhân là ai?

Doanh nhân là một trong những thành phần phổ biến trong xã hội hiện nay. Trước đây, những thương nhân trao đổi mua bán hàng hóa được xem là các doanh nhân đầu tiên trong lịch sử loài người. Bản chất doanh nhân là những người làm ăn, kinh doanh. Ở nước ta trước năm 1986, “doanh nhân” không được tôn trọng, họ được gọi bằng những từ ngữ mô tả kinh doanh (thuộc tư nhân, tư hữu) như: hàng xáo, con buôn, cò…

Đến thời hiện đại, doanh nhân được nâng lên một tầm mới, họ là người tham gia vào lĩnh vực kinh doanh, thực hiện các hoạt động thương mại hoặc công nghiệp với mục đích tạo ra dòng tiền, bán hàng và doanh thu. Họ sử dụng kết hợp vốn nhân lực, tài chính, trí tuệ và vốn vật chất để tạo ra sự tăng trưởng, thúc đẩy kinh tế.

Cuốn Từ điển tiếng Việt (xuất bản tháng 4-2007) của Trung tâm từ điển học, do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên, Doanh nhân được định nghĩa là “Người làm nghề kinh doanh”; đồng thời còn có từ Doanh gia, được định nghĩa là “nhà doanh nghiệp, nhà kinh doanh lớn, có tiếng tăm” (tr. 218).

Như vậy, có thể hiểu “Doanh nhân là người sáng lập, chủ sở hữu hoặc cổ đông lớn của một doanh nghiệp thương mại. Doanh nhân đôi khi cũng gắn liền với những vị giám đốc điều hành, quản lý doanh nghiệp mặc dù chưa chắc họ là chủ sở hữu”.

Tuy nhiên, các giám đốc thuộc công ty nhà nước không được gọi là doanh nhân. Doanh nhân là thuật ngữ dành cho những công ty, doanh nghiệp ngoài nhà nước. Ngày trước doanh nhân chỉ gói gọn trong mỗi quốc gia, ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế toàn cầu, doanh nhân có thể là từ các chủ đầu tư nước ngoài.

Doanh nhân đóng vai trò quyết định trong việc huy động các nguồn lực tạo ra sản phẩm và dịch vụ cho xã hội, góp phần quan trọng vào việc thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng, xóa đói, giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho người lao động góp phần, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội của đất nước.

  1. Nguồn gốc ngày và ý nghĩa Ngày Doanh nhân Việt Nam

Sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư tay cho giới Công thương Việt Nam. Trong thư Người viết “…Hiện nay Công thương cứu quốc đoàn đương hoạt động để làm được nhiều việc ích lợi quốc dân. Tôi rất hoan nghênh và mong đợi nhiều kết quả tốt. Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà thì giới Công thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế, tài chính vững vàng và thịnh vượng.

Chính phủ, nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp đỡ giới thương nhân trong công cuộc kiến thiết này. Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là sự kinh doanh của các nhà doanh nghiệp thịnh vượng…” (Trích Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi giới Công thương được đăng trên Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam).

Để phát huy vai trò, truyền thống của đội ngũ doanh nhân Việt Nam, động viên các tầng lớp xã hội trong việc góp phần xây dựng và phát triển doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, theo đề nghị của Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Hiệp hội doanh nghiệp, ngày 20/9/2004 Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phan Văn Khải đã ký Quyết định số 990/QĐ-TTg về Ngày Doanh nhân Việt Nam, hằng năm lấy ngày 13 tháng 10 là “Ngày doanh nhân Việt Nam”. Việc Thủ tướng Chính phủ quyết đinh lấy ngày 13/10 là Ngày Doanh nhân Việt Nam mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc – đó chính là ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho giới công thương Việt Nam ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Thực tế đã khẳng định ý nghĩa lịch sử của bức thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi giới công thương vào ngày 13/10/1945. Trong giai đoạn này – giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế – bức thư của Hồ Chủ tịch vẫn còn nguyên giá trị, thể hiện đường lối đúng đắn và chỉ dẫn mang tính chiến lược của Người đối với việc khẳng định vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân trong xây dựng và kiến thiết đất nước.

Ý nghĩa của Ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10 chính là sự tôn vinh đóng góp của những người doanh nhân với sự phát triển của xã hội, khẳng định vị trí của mình vào công cuộc phát triển chung của đất nước, tạo động lực cho đội ngũ tinh hoa này sẽ tiếp tục tiến lên, vượt qua những thách thức, đóng góp vào công cuộc chung, giúp những vị doanh nhân nhận thức đúng đắn, ngày càng hăng hái trong việc phát triển sản xuất, đưa kinh tế Việt Nam phát triển, hội nhập với thế giới.

  1. Sự phát triển của Doanh nghiệp, Doanh nhân Việt Nam hiện nay

Những năm qua, các doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt Nam đã không ngừng trưởng thành và lớn mạnh, đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế.

Thực hiện đường lối của Đảng, dưới sự quản lý của Nhà nước, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và rất đáng tự hào. Năm 2019, bình quân cả nước có 7,9 doanh nghiệp đang hoạt động/1.000 dân so với 5,4 doanh nghiệp năm 2016. Giai đoạn 2017-2020, tỷ trọng của kinh tế tư nhân trong GDP luôn chiếm tỷ trọng cao nhất và liên tục tăng, từ 41,75% (2017) lên mức 42,68% (2020). Ðến tháng 1 năm 2021, Việt Nam đã có hơn 800 nghìn doanh nghiệp, khoảng 5,2 triệu hộ kinh doanh, số lượng đội ngũ doanh nhân đã lên đến hơn 5 triệu người. Con số trên đã minh chứng việc mở đường cho doanh nghiệp phát triển là hướng đi đúng đắn, nhiều doanh nhân Việt Nam lọt vào tốp “tỷ phú USD” toàn cầu. Họ là lực lượng chủ công, xung kích trong công cuộc thoát nghèo vĩ đại, đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, bị tàn phá bởi chiến tranh, trở thành một nước có thu nhập trung bình và đang vững vàng hội nhập.

Cùng với sự tăng nhanh về số lượng và quy mô của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đội ngũ doanh nhân nước ta đã không ngừng lớn mạnh, đóng góp tích cực vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động, xóa đói, giảm nghèo và tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết các vấn đề an sinh xã hội của đất nước. Hiện khu vực doanh nghiệp cũng đóng góp hơn 60% GDP, với khoảng 70% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút hàng chục triệu lao động. Vì vậy, có thể coi việc thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển và tạo nên vị thế của Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới là sứ mệnh, trọng trách của đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp.  Hiện nay, Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp tiềm lực như: Viettel, Vingroup, Vietnam Airlines, Vinamilk, FPT, Thaco, TH Group… Những doanh nghiệp này đang ngày một lớn dần về cả về quy mô, năng lực cạnh tranh, sản phẩm dịch vụ, quản trị điều hành, công nghệ. Đã có nhiều doanh nhân, doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.

Tuy nhiên, về số lượng, chất lượng của doanh nghiệp cũng còn những vấn đề phải quan như: tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị yếu… như nhận định tại Đại hội XIII của Đảng: “Năng lực và trình độ của nền kinh tế nhìn chung còn thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỷ lệ nội địa hóa thấp, hiệu quả tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế;…”

Trong tương lai, môi trường xã hội, môi trường pháp lý thuận lợi hơn sẽ tạo điều kiện để doanh nhân Việt Nam ngày càng phát huy mạnh mẽ sở trường và tiềm năng của mình, vươn ra tầm thế giới.

  1. Sự phát triển của doanh nghiệp, doanh nhân tỉnh Hậu Giang

Hòa vào xu thế phát triển chung, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân tỉnh Hậu Giang cũng không ngừng phát triển, khẳng định vị thế và uy tín trong quá trình sản xuất, hợp tác kinh doanh.

Theo thống kê, đến hết năm 2020, Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Hậu Giang có 148 hội viên, riêng nhiệm kỳ vừa qua phát triển được thêm 125 hội viên. Với phương châm “Kết nối doanh nhân, nâng tầm doanh nghiệp”, Hiệp hội đã khẳng định được uy tín, vai trò cầu nối cho doanh nghiệp với chính quyền, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập quốc tế. Hiệp hội tổ chức chương trình Cà phê doanh nhân định kỳ mỗi tháng một lần (thời gian gần đây có gián đoạn do dịch Covid-19), qua đó lãnh đạo tỉnh đã kịp thời nắm bắt và tháo gỡ vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh.

Được biết, giá trị tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tỉnh Hậu Giang năm 2020 đứng đầu trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long và nằm trong nhóm 20 tỉnh, thành là minh chứng cho sự đóng góp tích cực của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân tỉnh Hậu Giang.

Với thông điệp “công việc của người dân và doanh nghiệp cũng là công việc của chính quyền”, ông Lê Tiến Châu, Bí thư Tỉnh ủy, nhấn mạnh trong buổi Cà phê doanh nhân lần I trong năm 2021 do Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh tổ chức: “Mỗi sở, ngành, địa phương cần xác định luôn đồng hành và hỗ trợ doanh nghiệp, những kiến nghị, vướng mắc được ghi nhận và giải quyết ngay”. Qua đó, cho thấy sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh Hậu Giang đối với doanh nhân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Đ/c Lê Tiến Châu, Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang phát biểu tại buổi Cà phê doanh nhân (3/2021)

Hiện nay, do ảnh hưởng tình hình dịch bệnh Covid-19 nên các doanh nghiệp, doanh nhân trên địa bàn tỉnh Hậu Giang cũng gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, với nỗ lực và quyết tâm cao, các doanh nghiệp, doanh nhân tỉnh Hậu Giang đã tích cực tham gia đóng góp cho an sinh xã hội và các hoạt động góp phần phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Hậu Giang, chung tay phòng chống dịch COVID-19, ủng hộ đồng bào miền Trung trong thiên tai, lũ lụt… với tổng số tiền trên 5,4 tỷ đồng.

Qua đó cho thấy đội ngũ doanh nhân tỉnh Hậu Giang ngày càng lớn mạnh, có đủ năng lực, trình độ để quản lý, điều hành doanh nghiệp, vừa có tâm, có tầm, phát huy tinh thần tương thân, tương ái, tăng cường liên kết, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch cùng phát triển, góp phần vào sự phát triển của kinh tế xã hội tỉnh Hậu Giang nói riêng và cả nước nói chung.

  1. Giải pháp phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển mới

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của Việt Nam mang lại nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức cho nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung trong đó có Hậu Giang. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định cần: “Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nhất là các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm công nghệ cao, thân thiện với môi trường, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hậu Giang lần thứu XIV cũng nhấn mạnh ở các nhiệm vụ chủ yếu: “Tập trung phát triển kinh tế, đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát huy sức mạnh tổng hợp mọi thành phần kinh tế; tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp, có chính sách quan tâm doanh nghiệp tư nhân; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội kết nối giữa các địa phương trong Tỉnh và giữa Tỉnh với các tỉnh, thành trong khu vực. Chủ động và tích cực trong liên kết vùng và hội nhập quốc tế”.

Để xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh là bước đột phá góp phần thúc đẩy phát triển đất nước nói chung cũng như tỉnh Hậu Giang nói riêng thì cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với sự nghiệp phát triển đội ngũ doanh nhân.

Các cấp ủy đảng thường xuyên quan tâm xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân; chỉ đạo triển khai thực hiện chiến lược phát triển đội ngũ doanh nhân. Cụ thể hóa đường lối, chính sách của Ðảng đối với đội ngũ doanh nhân bằng các chương trình hành động thiết thực. Thường xuyên lắng nghe và tham vấn ý kiến của doanh nhân trong phát triển kinh tế – xã hội của ngành, địa phương. Qua đó, nhằm định hướng, tạo lập một đội ngũ doanh nhân đầy khát vọng cống hiến, khát khao làm giàu, đủ bản lĩnh vượt qua những thách thức trong bối cảnh hiện nay. Khẳng định được thương hiệu Việt trên trường quốc tế và có một trách nhiệm với cộng đồng, với quốc gia, dân tộc.

Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, đồng thời với việc công khai minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển.

Phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt, lành mạnh các thị trường, nhất là thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học – công nghệ. Công khai, minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, các chính sách hỗ trợ để định hướng cho doanh nhân, doanh nghiệp đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch phát triển và bảo đảm quyền lợi đầu tư, giảm rủi ro kinh doanh cho doanh nhân.

Thứ ba, xây dựng hệ thống các biện pháp hỗ trợ doanh nhân tham gia khu vực kinh doanh chính thức, mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đẩy mạnh liên kết sản xuất, kinh doanh.

Xây dựng chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp gắn với quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp, chuyển dịch cơ cấu ngành, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Đồng thời đẩy mạnh liên kết sản xuất; Hỗ trợ doanh nhân xây dựng thương hiệu sản phẩm gắn với doanh nghiệp; nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong nước và nước ngoài thông qua các chương trình xúc tiến thương mại cụ thể, thực chất.

Thứ tư, tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo và bồi dưỡng doanh nhân.

Bản thân mỗi chủ doanh nghiệp cần có ý thức nâng cao trình độ học vấn, các kiến thức chuyên ngành, kiến thức văn hóa, kinh tế, pháp luật và xã hội, những ứng dụng khoa học kỹ thuật để cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí…

Tóm lại, đội ngũ doanh nhân là lực lượng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất, uy tín cao sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế./.

Tài liệu tham khảo

  1. Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
  2. https://www.baohaugiang.com.vn/thoi-su-trong-tinh/dai-hoi-hiep-hoi-doanh-nghiep-tinh-hau-giang-nhiem-ky-2020-2025-94763.html
  3. https://www.baohaugiang.com.vn/thoi-su-trong-tinh/hon-40-doanh-nghiep-tham-gia-ca-phe-doanh-nhan-lan-i-nam-2021-96457.html
  4. https://dangcongsan.vn/kinh-te/doanh-nhan-viet-nam-thanh-qua-cua-cong-cuoc-doi-moi-565492.html
  5. https://www.thanhuytphcm.vn/tin-tuc/hinh-thanh-doi-ngu-doanh-nhan-sang-tao-tu-lap-tu-chu-dam-nghi-dam-lam-dam-duong-dau-1491873367
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

*

Số: 09 – NQ/TW

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

Hà Nội, ngày 09 tháng 12 năm 2011

NGHỊ QUYẾT

CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

I- ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH

Trong những năm qua, Ðảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp, phát huy vai trò của doanh nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhờ đó, nhận thức về vai trò của đội ngũ doanh nhân có chuyển biến tích cực, nhiều cấp ủy đảng, chính quyền thường xuyên quan tâm đến sự phát triển của doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân, hướng hoạt động của doanh nghiệp, doanh nhân vào mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, đất nước.

Cùng với sự tăng nhanh về số lượng và quy mô của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đội ngũ doanh nhân nước ta đã không ngừng lớn mạnh, đóng góp tích cực vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động và các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Đội ngũ doanh nhân trong khu vực doanh nghiệp nhà nước ngày một trưởng thành, chất lượng được nâng lên, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đội ngũ doanh nhân trong khu vực ngoài nhà nước ngày càng đông đảo, thể hiện tính năng động, hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đội ngũ doanh nhân đã phát huy tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm với xã hội, từng bước nâng cao được uy tín, thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp, góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Nhiều doanh nhân đã tích cực tham gia các chương trình xã hội, chương trình xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, chương trình vì cộng đồng, gắn bó hơn với giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đội ngũ doanh nhân nước ta còn không ít hạn chế, bất cập, nhất là về kiến thức, sự am hiểu pháp luật và năng lực kinh doanh, kinh nghiệm quản lý, khả năng cạnh tranh và hội nhập. Một bộ phận doanh nhân còn thiếu văn hóa kinh doanh và trách nhiệm xã hội, chưa tự giác tuân thủ pháp luật, lợi dụng những kẽ hở của pháp luật để trục lợi, móc nối với những phần tử thoái hóa, biến chất trong bộ máy quản lý nhà nước, vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, làm trầm trọng thêm các tiêu cực xã hội.

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên trước hết là do những sơ hở, lỏng lẻo và yếu kém của hệ thống các quy định pháp luật và công tác quản lý nhà nước; do đội ngũ doanh nhân nước ta mới hình thành và phát triển, chưa có tích lũy nhiều về vốn, tri thức, công nghệ và kinh nghiệm, truyền thống kinh doanh. Ở một số nơi, sự quan tâm của cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đối với doanh nhân còn hạn chế, chưa có được sự thống nhất nhận thức về vai trò của doanh nhân trong phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Thể chế về phát triển doanh nghiệp, doanh nhân còn thiếu đồng bộ; cải cách hành chính còn chậm. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục truyền thống và đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu. Vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nhân chưa được chú trọng. Công tác phát triển đảng trong đội ngũ doanh nhân và việc xây dựng tổ chức đảng, tổ chức chính trị – xã hội trong doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước còn nhiều bất cập…

II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO

1- Đội ngũ doanh nhân là lực lượng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất, uy tín cao, sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

2- Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, nâng cao trình độ, kiến thức toàn diện của doanh nhân, chú trọng nâng cao phẩm chất đạo đức, ý thức công dân, trách nhiệm xã hội và tinh thần dân tộc của đội ngũ doanh nhân, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

3- Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh là trách nhiệm của Đảng, của cả hệ thống chính trị và của bản thân mỗi doanh nghiệp, doanh nhân. Xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân phải gắn liền với hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền sở hữu và tự do kinh doanh của doanh nhân theo pháp luật, khuyến khích doanh nhân làm giàu cho mình và cho đất nước. Tăng cường mối liên kết, hợp tác, đoàn kết cùng có lợi giữa doanh nhân với công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

III- MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ

1- Mục tiêu

Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần dân tộc, giác ngộ chính trị, văn hóa kinh doanh, có trách nhiệm xã hội cao, có đủ năng lực, trình độ để lãnh đạo, quản lý các doanh nghiệp hoạt động có chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao, liên kết chặt chẽ, tham gia tích cực vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và toàn cầu; không ngừng phát triển, phấn đấu đến năm 2020 có một số doanh nhân, doanh nghiệp có thương hiệu đạt tầm cỡ khu vực Đông – Nam Á.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

2.1- Nâng cao nhận thức về vai trò của đội ngũ doanh nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhằm tạo sự chuyển biến nhận thức trong cán bộ, đảng viên và sự đồng thuận xã hội về vị trí, vai trò của doanh nhân, doanh nghiệp trong phát triển kinh tế – xã hội đất nước, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; phát huy tinh thần yêu nước, trách nhiệm xã hội trong kinh doanh, khuyến khích các hoạt động sản xuất, kinh doanh tạo ra nhiều của cải cho xã hội; tôn vinh sự cống hiến và bảo hộ thu nhập hợp pháp của doanh nhân; nâng cao trách nhiệm của doanh nhân đối với cộng đồng xã hội.

Tổ chức cho doanh nhân và doanh nghiệp thực hiện tốt việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và các cuộc vận động khác do Đảng, Nhà nước phát động.

2.2- Tạo môi trường sản xuất, kinh doanh bình đẳng và thuận lợi cho doanh nhân

Công khai, minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, các chính sách hỗ trợ để định hướng cho doanh nhân, doanh nghiệp đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch phát triển và bảo đảm quyền lợi đầu tư, giảm rủi ro kinh doanh cho doanh nhân. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, nhất là trong việc thực hiện các dự án, công trình theo hình thức hợp tác công – tư. Khuyến khích tư nhân góp vốn vào các doanh nghiệp nhà nước. Thúc đẩy hình thành các doanh nghiệp lớn, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh, về tài chính công, thuế, tài nguyên môi trường, bảo vệ người tiêu dùng; tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, xoá bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh, xã hội hoá đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế – xã hội. Phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt, lành mạnh các thị trường, nhất là thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học – công nghệ. Nâng cao hiệu lực xét xử của tòa án về các vụ việc tranh chấp thương mại, khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính đối với doanh nhân, doanh nghiệp, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nhân, doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khuyến khích và có biện pháp bảo vệ các doanh nhân đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.

Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế đối thoại, tham vấn ý kiến của doanh nhân trong quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, phát triển kinh tế vùng và địa phương.

Xây dựng các cơ chế, chính sách và tăng cường kiểm tra, giám sát để bảo đảm tính minh bạch trong quan hệ giữa các cơ quan, công chức, viên chức nhà nước với doanh nghiệp, doanh nhân, nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi những hiện tượng móc nối trục lợi, gây khó khăn, phiền hà đối với doanh nhân trong quá trình kinh doanh.

Xây dựng cơ chế giám sát và đánh giá tác động của chính sách phát triển doanh nghiệp của Quốc hội, hội đồng nhân dân và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.

2.3- Hỗ trợ đội ngũ doanh nhân mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, khuyến khích phát triển doanh nhân khu vực nông thôn

Xây dựng chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp gắn với quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp, chuyển dịch cơ cấu ngành, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước với trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và ngân hàng thương mại nhà nước.

Thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, quan tâm hỗ trợ hộ kinh doanh cá thể phát triển thành doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp. Khuyến khích liên kết, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp, tăng nhanh số lượng doanh nghiệp có quy mô vừa; thúc đẩy hình thành và phát triển doanh nghiệp lớn, có khả năng dẫn dắt, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ, khẳng định vị trí tại thị trường trong nước và thâm nhập có hiệu quả vào thị trường thế giới.

Hỗ trợ doanh nhân xây dựng thương hiệu sản phẩm gắn với doanh nghiệp; nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong nước và nước ngoài thông qua các chương trình xúc tiến thương mại cụ thể, thực chất. Chú trọng cung cấp kiến thức pháp luật, thông tin về thị trường, về khoa học công nghệ cho doanh nghiệp. Cơ quan đại diện thương mại, đại diện ngoại giao có trách nhiệm giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nhân khi hoạt động kinh doanh ở nước ngoài; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nhân Việt Nam tham gia tiến trình hội nhập quốc tế.

Có chính sách và triển khai các biện pháp tạo thuận lợi cho doanh nhân đầu tư nghiên cứu đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, nghiên cứu thiết kế, thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ mới. Chú trọng đầu tư phát triển doanh nghiệp trong các khu công nghệ cao. Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp, làng nghề, vùng chuyên canh sản xuất, chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản. Tăng cường liên kết, hợp tác đầu tư giữa các doanh nghiệp, doanh nhân với công nhân, nông dân và các nhà khoa học.

Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển lực lượng doanh nhân khu vực nông nghiệp, nông thôn; cải thiện khả năng tiếp cận thông tin tài chính, công nghệ và thị trường của doanh nhân ở khu vực này; chú trọng gắn kết chặt chẽ, bảo đảm hài hoà lợi ích giữa nhà kinh doanh và nhà nông.

2.4- Quan tâm, tạo chuyển biến trong đào tạo và bồi dưỡng doanh nhân

Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình đào tạo doanh nhân, chương trình đào tạo về khởi sự doanh nghiệp; trang bị cho doanh nhân mới những kiến thức cần thiết về kinh doanh, về pháp luật và trách nhiệm xã hội; từng bước tiếp cận chuẩn mực pháp luật quốc tế trong đào tạo quản trị kinh doanh, quản trị doanh nghiệp.

Đổi mới nội dung chương trình, phương pháp đào tạo về kinh tế, quản trị kinh doanh ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề theo hướng nâng cao tính thực tiễn của các chương trình đào tạo và khả năng thực hành của học viên. Tăng cường mối quan hệ, liên kết giữa nhà trường, viện nghiên cứu với các doanh nghiệp; gắn đào tạo của nhà trường với yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội; khuyến khích doanh nhân tham gia đầu tư và giảng dạy trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, ý thức trách nhiệm, sự trung thực, tinh thần hợp tác, ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng. Tạo điều kiện để doanh nhân Việt Nam giao lưu học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với doanh nhân nước ngoài.

2.5- Đề cao đạo đức, văn hoá kinh doanh, trách nhiệm xã hội, tinh thần dân tộc của đội ngũ doanh nhân, xây dựng quan hệ lao động hài hòa

Xây dựng chuẩn mực của doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật; có khát vọng vươn lên làm giàu cho mình, cho đất nước, không ngừng nâng cao năng lực kinh doanh và quản trị doanh nghiệp; có trách nhiệm với người lao động, với cộng đồng, xã hội và có đạo đức, văn hoá kinh doanh, góp phần chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.

Xây dựng hình ảnh doanh nhân có bản sắc Việt Nam; khuyến khích doanh nhân không ngừng hoàn thiện mình để trở thành những người có trách nhiệm, có đóng góp cho xã hội và đất nước. Phát động các phong trào thi đua để nuôi dưỡng khát vọng vươn lên của doanh nhân Việt Nam. Đồng thời, quản lý hoạt động tôn vinh khen thưởng doanh nghiệp, doanh nhân tiêu biểu theo đúng quy định của pháp luật, thực sự có tác dụng biểu dương, nêu gương.

Hoàn thiện khung khổ pháp luật để xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ và tăng cường sự gắn bó giữa doanh nhân và người lao động trong doanh nghiệp. Doanh nhân có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành, phát triển các tổ chức chính trị và chính trị – xã hội trong doanh nghiệp; tham gia xây dựng hệ thống pháp luật, nhất là những quy định liên quan đến doanh nghiệp, doanh nhân.

2.6- Phát huy vai trò của các tổ chức đại diện của cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân

Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với vai trò là một tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp vững mạnh của cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân và người sử dụng lao động ở Việt Nam.

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và các hiệp hội doanh nghiệp cần quan tâm đến công tác vận động chính trị trong đội ngũ doanh nhân bằng nhiều hình thức thích hợp; tập hợp, phản ánh ý kiến, nguyện vọng của đội ngũ doanh nhân; tham mưu cho Đảng, Nhà nước về các chính sách kinh tế – xã hội; xây dựng đạo đức, văn hoá kinh doanh, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, doanh nhân; hỗ trợ doanh nghiệp, doanh nhân hội nhập kinh tế quốc tế.

Tăng cường hợp tác, tham vấn, đối thoại giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các hiệp hội doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước; tạo điều kiện cho các doanh nhân, hiệp hội doanh nghiệp tham gia vào việc xây dựng, triển khai các quy hoạch phát triển ngành hàng, kinh tế vùng và địa phương. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho các hiệp hội và hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp.

2.7- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân

Các cấp ủy đảng thường xuyên quan tâm xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân; chỉ đạo triển khai thực hiện chiến lược phát triển đội ngũ doanh nhân. Cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng đối với đội ngũ doanh nhân bằng các chương trình hành động thiết thực. Thường xuyên lắng nghe và tham vấn ý kiến của doanh nhân trong phát triển kinh tế – xã hội của ngành, địa phương. Quan tâm lãnh đạo đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm phiền hà, sách nhiễu trong việc thực hiện các thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, doanh nhân.

Chú trọng công tác phát triển đảng, xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nâng cao giác ngộ chính trị cho người sử dụng lao động và người lao động, bảo đảm cho hoạt động của doanh nghiệp, doanh nhân theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thí điểm việc kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Tạo điều kiện cho đội ngũ doanh nhân có đại diện trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị.

Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức, đoàn thể trong doanh nghiệp. Hướng dẫn để các tổ chức, đoàn thể hợp tác cùng doanh nhân góp phần xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, xây dựng đạo đức, văn hoá kinh doanh, quan hệ lao động hài hoà, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, bảo đảm doanh nghiệp phát triển bền vững, đời sống vật chất, tinh thần của người lao động không ngừng được nâng cao.

IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1-Cấp ủy, tổ chức đảng ở từng cấp có trách nhiệm tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết tới cán bộ, đảng viên; xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết.

2- Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật về phát triển doanh nghiệp, doanh nhân.

3- Ban cán sự đảng Chính phủ xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết; chuẩn bị đề án đào tạo phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam đến năm 2020; lãnh đạo việc rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân đến năm 2020.

4- Đảng đoàn Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với các bộ, ngành xây dựng và tổ chức triển khai các chương trình hỗ trợ doanh nhân nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập, khen thưởng, tôn vinh doanh nhân, phát triển các hiệp hội doanh nghiệp và làm tốt công tác đại diện người sử dụng lao động.

5- Ban Dân vận Trung ương phối hợp với các ban của Đảng và Đảng đoàn Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Nghị quyết này được phổ biến đến chi bộ.

T/M BỘ CHÍNH TRỊ

TỔNG BÍ THƯ

(Đã ký)

 

 

 

Nguyễn Phú Trọng

Doanh nhân tham gia nghị trường phải “vượt lên chính mình”

25/07/2011 18:43 GMT+7

TTO – Quốc hội khóa XIII có tỉ lệ doanh nhân là đại biểu khá cao so với nhiều nhiệm kỳ trước, tỉ lệ đó nói lên điều gì? Đó là câu hỏi Tuổi Trẻ đặt ra với ông Vũ Tiến Lộc – chủ tịch Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam – bên hành lang Quốc hội, chiều 25-7.

Ông Lộc nói:

– Đảng ta đã xác định trong giai đoạn hiện nay phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, và chúng ta biết rằng doanh nghiệp, doanh nhân đóng vai trò là đội quân chủ lực, xung kích trên mặt trận này. Nhìn ra thế giới, sức mạnh của nền kinh tế của mỗi quốc gia tùy thuộc sức mạnh của đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân quốc gia đó, cho nên mọi quốc gia đều tìm cách chăm sóc, phát triển đội ngũ doanh nhân của mình.

Theo thống kê của chúng tôi, Quốc hội khóa XIII có 38 doanh nhân tham gia, bên cạnh đó doanh nhân cũng tham gia khá đông ở HĐND các cấp. Điều đó cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự ghi nhận của xã hội về vai trò của một tầng lớp, một lực lượng xã hội đã và đang hình thành, phát triển trong nền kinh tế của đất nước.

* Doanh nhân có những thế mạnh nào khi tham gia Quốc hội để đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước?

– Quyết định các vấn đề quan trọng về phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng các đạo luật về kinh tế… là một trong những nội dung quan trọng của tất cả các kỳ họp. Doanh nhân là những người hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực này, cho nên họ có thể mang đến diễn đàn Quốc hội hơi thở của đời sống kinh tế, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

* Có ý kiến cho rằng thực tiễn luôn có các nhóm lợi ích khác nhau, trong khi đó doanh nhân tham gia nghị trường nghĩa là trực tiếp xây dựng thể chế, xây dựng chính sách, liệu có những sự vận động vì lợi ích cục bộ?

– Tiếng nói của doanh nhân ở nghị trường phải là tiếng nói bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng. Mỗi doanh nhân khi tham gia Quốc hội phải vượt lên chính mình để trở thành người đại diện cho cử tri, cho các tầng lớp nhân dân, đại diện cho nền kinh tế chứ không phải chỉ đại diện cho giới của mình. Đó là thách thức rất lớn. 

Rất nhiều doanh nhân khi tham gia nghị trường vẫn tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong lĩnh vực kinh tế với tư cách là người tổ chức điều hành doanh nghiệp. Nhưng cũng có những doanh nhân cùng với quá trình hoạt động Quốc hội sẽ là bước đi đầu tiên để họ trưởng thành bằng con đường trở thành chính khách, trở thành các nhà quản lý và lãnh đạo.

Đó cũng là việc bình thường, vì trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương hiện có rất nhiều người đã trưởng thành từ doanh nghiệp.

Chính phủ sẽ tiếp tục đồng hành, tạo thuận lợi để doanh nhân trẻ cống hiến tài năng cho đất nước

(Chinhphu.vn) – Với tinh thần xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động phục vụ nhân dân, phục vụ doanh nghiệp, trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân, Chính phủ sẽ tiếp tục đồng hành, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân trẻ khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng cho đất nước.

31/03/2022  18:55

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cùng các đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2022-2025 – Ảnh VGPSáng 31/3, Đồng chí Lê Minh Khái, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ đã dự và phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2022-2025.

Dự Đại hội có đồng chí Bùi Thị Minh Hoài, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương, đồng chí Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đồng chí Nguyễn Anh Tuấn, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh…

Khẳng định vị thế, uy tín trong cộng đồng doanh nhân và xã hội

Phát biểu tại đại hội, đồng chí Lê Minh Khái nêu rõ, nhiệm kỳ vừa qua, mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong tổ chức và hoạt động của Hội Doanh nhân trẻ, nhất là tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến hết sức phức tạp, ảnh hưởng nặng nề đến mọi mặt của đời sống xã hội nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng, nhưng phát huy truyền thống tốt đẹp của tuổi trẻ Việt Nam, với khát vọng cống hiến và tinh thần “Doanh nghiệp trẻ Việt Nam – Tiên phong đổi mới – Kiến tạo giá trị”, Hội Doanh nhân trẻ và đội ngũ doanh nhân trẻ Việt Nam đã khẳng định vai trò, sức trẻ, sự đoàn kết, năng động, sáng tạo, nỗ lực cố gắng vượt qua khó khăn, đạt được những kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Đồng chí Lê Minh Khái nhấn mạnh: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước rất vui mừng trước sự phát triển ngày càng lớn mạnh của Hội Doanh nhân trẻ, đội ngũ doanh nhân trẻ Việt Nam cả về tổ chức, số lượng, chất lượng và phạm vi hoạt động.

Từ một Câu lạc bộ Doanh nghiệp trẻ Việt Nam với 15 hội viên ban đầu, 2 Câu lạc bộ Doanh nhân trẻ tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, đến nay tổ chức của Hội đã có mặt ở 63 tỉnh, thành phố trong cả nước và trên 11.000 hội viên. Hoạt động của Hội đã vươn ra tầm thế giới và khu vực khi trở thành thành viên của tổ chức Doanh nghiệp trẻ châu Á-Thái Bình Dương vào năm 2021.

Quá trình hoạt động, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam đã có nhiều tìm tòi, sáng tạo, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động với nhiều sáng kiến mới, để lại dấu ấn tốt, khẳng định vị thế, uy tín trong cộng đồng doanh nhân và xã hội.

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái: Chính phủ sẽ tiếp tục đồng hành, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân trẻ khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng cho đất nước – Ảnh VGPCác doanh nghiệp của Hội Doanh nhân trẻ ngày càng lớn mạnh

Các doanh nghiệp của Hội Doanh nhân trẻ cũng ngày càng lớn mạnh, đang tạo việc làm cho hơn 3 triệu lao động với tổng doanh thu hằng năm trên 30 tỷ USD và đóng góp tích cực cho ngân sách nhà nước.

Nhiều doanh nhân trẻ đã nêu cao tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, khát vọng cống hiến, năng động sáng tạo, chủ động hội nhập, khởi nghiệp thành công; tạo dựng được uy tín, thương hiệu trên thị trường, tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có giá trị, chất lượng cao.

Trước tác động của đại dịch COVID-19, các doanh nhân, doanh nghiệp trẻ Việt Nam không chỉ đoàn kết, bản lĩnh, sáng tạo để trụ vững, thích ứng linh hoạt, an toàn, từng bước vượt qua khó khăn, thử thách mà còn nêu cao trách nhiệm, tích cực tham gia công tác an sinh xã hội với nhiều hoạt động đầy ý nghĩa, thể hiện tinh thần chia sẻ vì cộng đồng.

Nhất là sự sáng tạo trong việc triển khai các mô hình ATM chống dịch COVID-19 (ATM gạo, ATM oxy, ATM F0 chống dịch, ATM yêu thương nhận bảo trợ trẻ em mồ côi do dịch COVID-19…), nhiều doanh nhân trẻ đã luôn sát cánh đồng hành cùng với Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong việc triển khai nhiều chương trình xã hội để giúp đỡ các gia đình nghèo ở những địa bàn nông thôn, miền núi, hải đảo… Tất cả những nghĩa cử cao đẹp của lực lượng doanh nhân trẻ Việt Nam trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn đã lan tỏa giá trị nhân văn và tạo ý nghĩa kinh tế, xã hội sâu sắc.

Những kết quả đạt được của doanh nhân trẻ Việt Nam nhiệm kỳ qua đã giúp củng cố, phát triển ngày càng vững chắc vị thế của Hội Doanh nhân trẻ và đội ngũ các nhà doanh nghiệp trẻ Việt Nam. Bằng những việc làm cụ thể của doanh nhân trẻ, các bạn không chỉ biết làm giàu chính đáng cho doanh nghiệp mình mà còn sẵn sàng chia sẻ, ủng hộ, giúp đỡ để mọi người cùng vượt qua hoàn cảnh khó khăn với tinh thần không để ai bị bỏ lại phía sau.

Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2022- 2025 là sự kiện quan trọng đánh dấu bước trưởng thành và phát triển mới của phong trào doanh nhân trẻ Việt Nam – Ảnh VGPTrách nhiệm đặt ra đối với Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam là rất lớn

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng chí Lê Minh Khái nhiệt liệt biểu dương và ghi nhận những thành công, đóng góp quan trọng của đội ngũ doanh nhân trẻ và Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam nhiệm kỳ vừa qua; biểu dương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam đã quan tâm theo dõi, giúp đỡ, định hướng hoạt động đối với Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam trong thời gian qua.

Đồng chí Lê Minh Khái nêu rõ: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là: Phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.

Quá trình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi đất nước cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức; nhất là trước diễn biến hết sức phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực, tác động của quá trình hội nhập quốc tế, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và dịch bệnh COVID-19.

Trong điều kiện như vậy, cần có sự đoàn kết, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, trong đó có lực lượng doanh nghiệp trẻ Việt Nam.

Trong điều kiện, hoàn cảnh đó, trước những yêu cầu đòi hỏi nêu trên thì trách nhiệm đặt ra đối với Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam là rất lớn nhưng cũng rất vinh dự, tự hào. Đồng chí Lê Minh Khái bày tỏ đồng tình, nhất trí cao với mục tiêu, phương hướng hành động của Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam trong nhiệm kỳ 2022-2025 đã được Đại hội thông qua, đồng thời trao đổi nhấn mạnh thêm một số nội dung chủ yếu sau đây để Hội doanh nghiệp trẻ nghiên cứu trong quá trình triển khai thực hiện.

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đề nghị Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam kịp thời đề xuất với Đảng, Nhà nước nhiều ý tưởng, sáng kiến trong quá trình hoạch định chủ trương, chính sách, tạo điều kiện cho các doanh nhân trẻ cống hiến và phát triển – Ảnh VGPHội Doanh nhân trẻ phải thực sự là mái nhà chung

Theo đồng chí Lê Minh Khái, trong thời kỳ đất nước đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào cộng đồng các quốc gia trên thế giới, đội ngũ doanh nhân có vai trò, sứ mệnh rất quan trọng. “Thương trường là chiến trường”, doanh nhân chính là những chiến sĩ trên chiến trường không có tiếng súng nhưng cạnh tranh vô cùng khốc liệt, đòi hỏi bản lĩnh, trí tuệ, nhậy bén chớp lấy thời cơ.

Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ và doanh nhân trẻ, từ đó chú trọng tuyên truyền, vận động, thuyết phục hội viên nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những yêu cầu mới đặt ra đối với doanh nghiệp, doanh nhân trẻ trong quá trình hoạt động; khơi dậy niềm tự hào dân tộc và ý chí tự lực tự cường của doanh nhân trẻ.

Trước mắt là nỗ lực vượt qua khó khăn, khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh trong và sau đại dịch COVID-19, tham gia tích cực, hiệu quả vào việc phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội theo Kết luận của Bộ Chính trị, các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ.

Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam cần tiếp tục xây dựng, củng cố, phát triển hệ thống tổ chức và đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động. Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam phải thực sự là mái nhà chung, tập hợp, đoàn kết lực lượng doanh nhân trẻ, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của các doanh nhân trẻ.

Hoạt động của Hội Doanh nhân trẻ và đội ngũ doanh nhân trẻ Việt Nam dù ở bất cứ lĩnh vực, phạm vi nào cũng phải luôn bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ; đảm bảo tôn chỉ, mục đích; chú trọng xây dựng văn hóa doanh nghiệp, tạo dựng uy tín, thương hiệu; hướng đến sự phát triển của đất nước và cộng đồng xã hội.

Đa dạng hóa hình thức hoạt động, tăng cường liên kết, phát triển thị trường, chia sẻ thông tin, phân tán rủi ro, nâng cao năng lực của các thành viên; qua đó nâng tầm ảnh hưởng không chỉ trong nước mà còn vươn ra khu vực và thế giới.

Kịp thời đề xuất với Đảng, Nhà nước nhiều ý tưởng, sáng kiến trong quá trình hoạch định chủ trương, chính sách, tạo điều kiện cho các doanh nhân trẻ cống hiến và phát triển.

Ban Chấp hành Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam khóa VII ra mắt đại hội – Ảnh VGPXây dựng đội ngũ doanh nhân trẻ xứng đáng là những ‘chiến sĩ giỏi’ trên mặt trận kinh tế

Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện các chương trình hành động của mình, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam cần chú trọng xây dựng đội ngũ doanh nhân trẻ lớn mạnh về số lượng và chất lượng, xứng đáng là những “chiến sĩ giỏi” trên mặt trận kinh tế.

Đồng chí Lê Minh Khái mong các bạn doanh nhân trẻ thường xuyên học tập, rèn luyện trở thành những người có tâm, có tầm, đủ sức nghĩ lớn, nhìn xa vì sự phát triển của chính doanh nghiệp và đất nước; đủ bản lĩnh để đối mặt, vượt lên khó khăn, thách thức, đi tiên phong trên mọi lĩnh vực, nhất là về khoa học công nghệ và những ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn còn nhiều khó khăn.

Phó Thủ tướng đề nghị các doanh nhân trẻ cần tiếp tục nêu cao trách nhiệm xã hội, không ngừng đổi mới, sáng tạo, đoàn kết để chinh phục và cạnh tranh tốt trong môi trường toàn cầu, đưa doanh nghiệp Việt Nam đi xa hơn, hội nhập sâu hơn và mang lại thành công lớn to hơn.

Đồng chí Lê Minh Khái đề nghị Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tiếp tục quan tâm nhiều hơn nữa, thường xuyên đồng hành, định hướng, hỗ trợ hoạt động của Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam và lực lượng doanh nghiệp trẻ.

Đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp trong thanh niên để bổ sung lực lượng hùng hậu cho đội ngũ doanh nhân trẻ. Tổ chức nhiều hình thức phù hợp, thiết thực để khuyến khích, huy động doanh nhân trẻ thực hiện trách nhiệm xã hội, sẻ chia vì cộng đồng. Kịp thời tôn vinh, khen thưởng hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền khen thưởng xứng đáng những doanh nhân trẻ có nhiều đóng góp cho phong trào thanh niên và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Chính phủ sẽ tiếp tục đồng hành cùng các doanh nhân trẻ

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái khẳng định: “Với tinh thần xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động phục vụ nhân dân, phục vụ doanh nghiệp, trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân, Chính phủ sẽ tiếp tục đồng hành, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân trẻ khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng cho đất nước.

Đảng, Nhà nước và cộng đồng xã hội luôn tin tưởng rằng, với nhiệt huyết, trí tuệ, hoài bão và lòng tự hào dân tộc, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam sẽ phát huy những kết quả đã đạt được, tiếp tục vươn tới những thành công mới, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xứng đáng với sự tin yêu, kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân dành cho lực lượng doanh nhân trẻ Việt Nam”.

Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đồng chí Lê Minh Khái, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ chúc mừng những doanh nhân trẻ được Đại hội hiệp thương, bầu vào Ủy ban Trung ương Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam khóa VII, nhiệm kỳ 2022-2025.

Đồng chí Lê Minh Khái mong rằng, Ủy ban Trung ương Hội khóa VII sẽ kế thừa những kết quả, kinh nghiệm của nhiệm kỳ qua, lãnh đạo Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam ngày càng phát triển, xứng đáng với niềm tin và hy vọng của doanh nhân trẻ cả nước.