Số hóa phim – Trọng tâm của xu hướng chuyển đổi số lĩnh vực điện ảnh

Vừa qua, tại Hà Nội, trong khuôn khổ hội thảo “Lưu trữ, bảo quản, số hóa, phục chế phim trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” thuộc hoạt động của chuỗi Hội nghị lần thứ 25 Hiệp hội các Viện Lưu trữ Nghe nhìn Đông Nam Á – Thái Bình Dương (SEAPAVAA) tại Việt Nam, Chuyên gia Nguyễn Thy Nga với vai trò là một diễn giả đã có những chia sẻ về góc độ quản trị chiến lược và xây dựng hệ sinh thái nền tảng trước khi đi vào công nghệ, kiến nghị về xây dựng hệ sinh thái điện ảnh số và đẩy vai trò điện ảnh số là một trong những trọng tâm của công nghiệp văn hoá.

Với chương trình chuyển đổi số quốc gia được Thủ tướng phê duyệt ngày 03/06/2020, Việt Nam là một trong những nước tiên phong trên thế giới và đi đầu ở Đông Nam Á có một chương trình chuyên đề về chuyển đổi số, trong đó, 3 trụ cột của chương trình chuyển đổi số quốc gia là xây dựng và phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.

Trong kinh tế số, toàn bộ hoạt động kinh doanh hướng tới môi trường số, đặc biệt hướng đến các doanh nghiệp số phát triển đóng góp cho kinh tế số và ứng dụng các công nghệ số vào hoạt động của các đơn vị truyền thống.

Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019, của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đề ra mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số chiếm tỷ lệ 20% GDP và khoảng 30% GDP vào năm 2030. Để đạt được mục tiêu này cần sự nỗ lực đồng bộ từ Chính phủ đến người dân, doanh nghiệp.

Trên cơ sở định hướng phát triển Chính phủ số, nền tảng của kinh tế số, xã hội số trở thành yếu tố tất yếu đối với mọi người dân, hoạt động xã hội. Ở phạm vi rộng, xã hội số bao trùm lên mọi hoạt động của con người. Động lực chính của xã hội số là công nghệ số, dựa trên sự tăng trưởng thông tin, dữ liệu một cách nhanh chóng, làm thay đổi mọi khía cạnh của tổ chức xã hội.

Chính phủ xác định phát triển kinh tế số, tăng tốc thực hiện chuyển đổi số trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, mọi tổ chức, doanh nghiệp, từng địa phương và lĩnh vực điện ảnh cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Lĩnh vực điện ảnh là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của công nghiệp văn hoá, là sản phẩm kết tinh của kinh tế tri thức, góp phần quảng bá, bảo vệ, phát triển bản sắc dân tộc.

Công nghệ kỹ thuật hiện đại trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác động đến mọi yếu tố trong lĩnh vực điện ảnh.

– Trong khâu sản xuất là sự hỗ trợ đắc lực của kỹ xảo về hình ảnh, âm thanh.

– Trong khâu phát hành và phổ biến phim sẽ là sự thúc đẩy trong xây dựng công nghệ và kiến trúc rạp chiếu.

– Công nghệ số cũng rất hữu ích, thuận tiện để có thể truyền trực tiếp phim từ nhà sản xuất đến cơ sở chiếu phim; đảm bảo về bản quyền phim.

Khi nói đến điện ảnh, chúng ta thường hình dung đến các thể loại phim, video và hình ảnh động. Về cơ bản, điện ảnh đóng vai trò như một phương tiện quan trọng của cuộc sống thường ngày, đóng góp vào các nỗ lực của chúng ta trong việc ghi lại và diễn giải lịch sử – của cộng đồng cũng như của cá nhân. Việc bảo tồn và lan tỏa các tư liệu lịch sử này phụ thuộc nhiều vào các quy trình lưu trữ, phổ biến và quảng bá phim và video trên các nền tảng số.

Cũng như các quốc gia khác trong khu vực và quốc tế, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số là một xu hướng tất yếu cho Việt Nam, các quá trình triển khai hoạt động sản xuất phim mới được ứng dụng công nghệ 4.0, đồng thời áp dụng số hoá với lưu trữ, phổ biến và quảng bá phim đã có.

Số hóa điện ảnh

Khái niệm Số hóa – phần quan trọng của chuyển đổi số

Số hóa là một hình thức hiện đại có khả năng chuyển các hệ thống từ dạng thông thường sang dạng kỹ thuật số. Điển hình như số hóa các tài liệu dạng giấy thành file pdf, jpg, tif, bmp và lưu trữ trên máy tính. Số hóa truyền hình từ hình thức phát sóng analog sang loại hình phát sóng kỹ thuật số. Hay số hóa còn được định nghĩa là nhập dữ liệu lên phần mềm để có thể quản lý, theo dõi và đánh giá chúng dễ dàng, thuận tiện hơn. Số hoá phim là bước chuyển mọi thông tin và dữ liệu phim từ dạng analog sang thông tin kỹ thuật số.

Mặc dù lưu trữ ở dạng analog thường ổn định hơn, nhưng dữ liệu số có thể dễ dàng chia sẻ, truy cập, và khai thác, dữ liệu số có thể được truyền đi vô thời hạn, không bị mất mát qua thời gian và các qua các lần sao chép dữ liệu, miễn là trong quá trình số hoá, sử dụng các nền tảng ổn định.

Số hóa tài liệu lưu trữ phim điện ảnh đã phổ biến tại các nước phát triển, tuy nhiên tại Việt Nam, số hóa tài liệu lưu trữ phim và các dạng hình ảnh động còn khá mới mẻ, đang trong quá trình sơ khai và từng bước phát triển.

Để thuận tiện cho việc bảo quản và lưu trữ, điện ảnh Việt Nam cần khảo sát, phân định đối tượng số hóa và các thể loại một cách rõ ràng. Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm quốc tế và đưa ra những chiến lược phù hợp đối với phân loại lưu trữ và số hóa điện ảnh tiên tiến, từ lâu đã thực hiện một cách khoa học trong việc phân loại các thể loại phim khác nhau.

Theo quan điểm của Liên đoàn các Viện lưu trữ phim quốc tế FIAF thì lưu trữ và bảo quản phim nhựa vẫn là giải pháp tối ưu nhất. Nhưng ngày nay, đứng trước xu hướng chuyển đổi số thì có nhiều đối tượng số hoá:

Đối với Phim thời sự – tài liệu

Có thể xem đây là đối tượng quan trọng nhất vì bao giờ phóng sự tài liệu được thực hiện theo tinh thần người thật việc thật, mang giá trị tư liệu lịch sử cao.

Đối với Phim truyện

Cần ưu tiên số hóa các bộ phim truyện kinh điển, những phim đạt giải thưởng quốc tế và trong nước – nhưng cần xem xét đến những tiêu chí về giá trị về nội dung, nghệ thuật thế hiện, tiêu biểu cho mối giai đoạn, thời kỳ lịch sử.

Đối với Phim hoạt hình

Chọn số hóa tất cả những bộ phim tiêu biểu mỗi thời kỳ, giai đoạn, ưu tiên số hoá trước và phổ biến những phim đoạt giải thưởng Quốc gia, Quốc tế.

Kế đến là tất cả tư liệu hình ảnh động được ghi theo từng chủ đề riêng lẻ hoặc đã tổng hợp, dù chưa phải là tác phẩm hoàn chỉnh. Đây cũng là những dữ liệu rất quan trọng, trên thực tế, có rất nhiều hình ảnh được ghi lại nhưng chỉ có một phần trong số đó được sử dụng để dựng thành phim. Chính số lượng tư liệu “thô” này là một kho tàng vô giá cho việc tham khảo về sau; cũng vì số lượng đồ sộ của chúng nên việc đánh dấu, hệ thống hoặc mã hóa chúng là vô cùng cần thiết đế tiện dụng cho việc sử dụng và tham khảo.

Ngoài ra, còn là các tài liệu (thường là bằng văn bản, hồ sơ) liên quan bao gồm các thông tin như kịch bản phim, tiến độ quay, lý lịch phim, kênh phát hành, thời hạn phát hành, tình trạng kỹ thuật, bản quyền sử dụng, nơi lưu trữ, thống kê doanh thu, số lượt người xem, các giải thưởng đã đạt được…

Hiện nay điện ảnh Việt vẫn đang rất lúng túng trong tiếp cận và áp dụng công nghệ kỹ thuật mới. Theo khảo sát, cả nước có 500 DN được cấp phép kinh doanh sản xuất phim (khoảng 15-20 DN sản xuất phim chiếu rạp, còn lại chủ yếu sản xuất các chương trình truyền hình, quảng cáo) và 922 rạp chiếu phim. Công nghệ sản xuất và chiếu phim vẫn rất lạc hậu, trong khi trên thế giới đã chuyển sang công nghệ số hóa. Rạp chiếu phim ở các thành phố lớn và rạp của công ty nước ngoài phát triển ồ ạt (chiếm 60% số rạp) và thiếu kiểm soát nên đã chi phối và lấn át các đơn vị trong nước. Trong khi đó, hệ thống rạp do Nhà nước quản lý xuống cấp trầm trọng, công nghệ lạc hậu, không đáp ứng nhu cầu của khán giả…

Lợi ích của việc số hoá dữ liệu phim là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam vẫn còn nhiều cơ quan nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp chưa triển khai và hoàn thiện được hoạt động này. Nguyên nhân có thể đến từ chính nội bộ của đơn vị:

Thứ nhất, việc số hoá có thể gây ra sự xáo đổi lớn về nhân sự trong đơn vị, đặc biệt là những vị trí lâu năm hoặc chủ chốt.

Thứ hai, dù khoản đầu tư số hoá dữ liệu nhiều hay ít phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển, trình độ công nghệ sẵn có cũng như nhu cầu thực tế, nhưng nó vẫn là một gánh nặng, đặc biệt nếu đầu tư ngay một hệ thống đầy đủ và hiện đại có thể khiến chi phí đội lên khá cao.

Nhân sự để triển khai số hoá thiếu và không đồng bộ về chuyên môn giữa các đơn vị, người có công nghệ thì không có chuyên môn trong lĩnh vực để có thể phân loại, nên phải đồng thời kết hợp nhân sự công nghệ và chuyên viên của đơn vị để cùng số hoá dữ liệu phim.

Triển khai số hoá điện ảnh

Do điện ảnh luôn đồng hành cùng với yếu tố kỹ thuật nên các bản kỹ thuật hiện nay đều đang sử dụng các thành tựu tiên tiến của khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực nghe – nhìn, chúng có khả năng tương thích cao với công nghệ truyền thông hiện đại. Như vậy, sẽ có hai việc cần làm ở đây:

Thứ nhất  số hóa các tác phẩm điện ảnh hoặc tư liệu hình ảnh động;

Thứ hai  số hóa các dữ liệu thông tin về các tác phẩm và tư liệu hình ảnh động.

Để làm việc thứ nhất phải lưu ý đến vấn đề kỹ thuật, bao gồm việc xử lý các bản phim và tư liệu hình ảnh động (bằng chất liệu nhựa, băng, đĩa) sao cho “sạch sẽ” (tức phim không bị chua, mốc, xước) sau đó mới số hóa.

Đây sẽ là bản sao kỹ thuật số, được thể hiện bằng đĩa hình hoặc bằng tín hiệu số, chúng có khả năng trao đổi, tham khảo giữa các nơi có nhu cầu sử dụng (vì trên nguyên tắc, việc sử dụng bản gốc là rất hạn chế để tránh thất thoát, hư hỏng hoặc vì vấn đề tôn trọng bản quyền).

Cần lưu ý bản gốc phim là chất liệu gì phải có phương tiện tương thích để đọc được nó (băng umatic, betacam… phải cần có đầu đọc). Hiện nay những thiết bị này không còn được sản xuất nữa và không có linh kiện thay thế, vì vậy phải chuyển dữ liệu sang ổ đĩa cứng hoặc đưa vào mạng internet nội bộ để lưu giữ.

Tuy nhiên, phải chú ý đến vấn đề an ninh mạng. Nói chung phải chia nhỏ ra nhiều kho dữ liệu, ngân hàng tích hợp dữ liệu… để chia sẻ bớt sự rủi ro.

Để làm việc thứ hai, các tác phẩm điện ảnh hay tư liệu hình ảnh động bắt buộc phải có bộ hồ sơ đi kèm để tiện dùng cho việc nhập dữ liệu và tra cứu.

Hai việc trên thường do các Viện phim hay các tổ chức lưu trữ thực hiện nhằm mục đích hệ thống hóa và truy cập thông tin khi cần thiết.

Sử dụng dữ liệu điện ảnh số Việt Nam

Việc công khai thông tin hay cung cấp các dịch vụ sử dụng hệ thống dữ liệu điện ảnh số là thẩm quyền của đơn vị chức năng, có liên quan đến luật bản quyền, quyền phổ biến và phát triển phim và sự tác động của công nghiệp nội dung số.

Về nguyên tắc, mọi tác phẩm điện ảnh đều phải nộp lưu chiểu, còn tư liệu hình ảnh động và các tài liệu đi kèm thì thường do các đơn vị lưu trữ tư liệu tổ chức ghi hình hoặc sưu tầm được.

Sau khi tập hợp, sẽ chọn lọc, tiến hành loại bỏ những phim không đạt chuẩn kỹ thuật hay không có giá trị về mặt nội dung, phần còn lại sẽ được vào hệ thống dữ liệu số hóa.
Hệ thống hóa các thông tin về các tác phẩm điện ảnh và tư liệu hình ảnh động từ trước đến nay, đa phần chúng đều đang được lưu trữ bằng bản kỹ thuật gốc. Chúng được in chuyển thành bản sao qua băng từ hay số hóa qua đĩa mỗi khi có nhu cầu in trích cho các đơn vị khác.

Việc thương mại hoá điện ảnh số, khai thác phổ biến dữ liệu điện ảnh trên các nền tảng trực tuyến, cũng là trọng tâm của kinh tế số trong lĩnh vực điện ảnh, thúc đẩy các mô hình sản xuất kinh doanh, phát triển các công nghệ nền tảng phát triển, quảng bá phim có thu phí đối với người dùng.

Việt Nam còn thiếu khá nhiều các quy định pháp luật trong việc chi phối thị trường, hầu như không có phân loại nội dung thị trường, không có tiêu chí rõ ràng khi kiểm duyệt nội dung, thủ tục hành chính tương đối phức tạp, hạn chế đầu tư nước ngoài khi cấp phép dịch vụ phát thanh, truyền hình, công nghiệp nội dung số, các dịch vụ quản lý nội dung trực tuyến (OCC) tại Việt Nam.

Từ khả năng tiếp cận nguồn tài nguyên hình ảnh động, để thương mại hóa điện ảnh số chúng ta cần thực hiện các việc sau để công tác số hóa tác phẩm điện ảnh và tư liệu hình ảnh động được hiệu quả:

– Tổ chức, phân loại dữ liệu khoa học. Xây dựng nền tảng dữ liệu số hóa toàn bộ quá trình sản xuất, phát hành và phổ biến phim và bản quyền tác giả; xây dựng cơ sở cung cấp dịch vụ kỹ thuật số cho ngành công nghiệp điện ảnh…

– Đánh giá dữ liệu hiện có, xác định mô hình dữ liệu dùng chung cho mục tiêu chuyển đổi số, xác định các mô hình khai thác và sử dụng dữ liệu cho các lớp ứng dụng, và đặt mục tiêu số hóa càng nhanh càng tốt các tác phẩm điện ảnh và hình ảnh tư liệu mới.

– Chuẩn bị hạ tầng số lưu trữ dữ liệu, ưu tiên những nền tảng của Việt Nam để đảm bảo bảo mật thông tin, dữ liệu của người Việt.

– Tìm kiếm các cơ hội thương mại hóa trong môi trường số.

Phát triển hệ sinh thái điện ảnh số

Điện ảnh Việt cần chủ động áp dụng những thành quả, tiến bộ khoa học mà công nghệ mang đến, hoạch định chiến lược phát triển công nghiệp điện ảnh phù hợp với xu hướng phát triển của điện ảnh thế giới. Theo đó, cần xác định những bước đi cụ thể phát triển hệ sinh thái điện ảnh số như:

– Phát triển nguồn nhân lực: Nhà nước cần đẩy mạnh đào tạo các tài năng, nhân lực trong việc ứng dụng số hóa trong lĩnh vực điện ảnh.

– Nhà nước cần tạo điều kiện về chính sách để doanh nghiệp tư nhân được tham gia vào hoạt động số hoá phim ảnh và phát triển các công nghệ nền tảng để khai thác, phổ biến và phát triển phim, tạo động lực cho kinh tế số lĩnh vực điện ảnh.

– Tăng cường phối hợp với các doanh nghiệp công nghệ số.

– Nâng cao ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực điện ảnh, nhất là trong sản xuất phim ứng dụng, chuyển giao công nghệ điện ảnh; hợp tác công – tư trong xây dựng các trung tâm chiếu phim hiện đại; xây dựng tác phẩm điện ảnh lớn sử dụng kỹ xảo; lưu trữ và phổ biến phim bằng công nghệ cao.

– Hoàn chỉnh Luật Điện Ảnh và đưa vào thực hiện nghiêm túc công tác nộp lưu chiểu phim, cần chế tài luật này trước hết với các đơn vị sản xuất phim nhà nước và tư nhân.

– Có chính sách rõ ràng về việc thu thập hình ảnh tư liệu của sở hữu cá nhân hay các đơn vị thông tin (hình thức mua lại, sang nhượng hoặc chia sẻ bản quyền sử dụng, hình thức chế tài, trao đổi…).

– Liên kết các cơ quan liên quan để thực hiện luật bản quyền (bảo hộ bản quyền, quyên sở hữu trí tuệ), có cơ chế phối hợp công tư để khai thác tốt nhất các tác phẩm điện ảnh và hình ảnh tư liệu, đặc biệt trong việc hợp tác, trao đổi, mua bán hay sang nhượng các quyền trên cho các đối tượng trong và ngoài nước, góp phần phát triển kinh tế số điện ảnh và quảng bá hình ảnh quá khứ hiện tại tương lại của đất nước con người Việt Nam đối với Việt Nam và thế giới.

Phát triển các nền tảng công nghệ lĩnh vực điện ảnh

Việc kinh doanh rồi mới tìm kiếm cộng đồng, hay khách hàng, là một quy trình phiêu lưu. Bởi khi đó, doanh nghiệp công nghệ không còn cách nào khác là phải phụ thuộc vào những hệ sinh thái khác để phát triển. Đó là lý do các doanh nghiệp công nghệ số trong lĩnh vực điện ảnh cần sớm xây dựng cộng đồng liên tục mỗi ngày để giá trị cộng đồng lớn dần. Việc này có thể được thực hiện thông qua xây dựng và nuôi dưỡng các cộng đồng trên internet kết hợp với các nền tảng, chương trình phổ biến phát triển phim và Việt Nam cần khuyến khích phát triển được các nền tảng ứng dụng trực tuyến nội địa thu hút người dùng để đảm bảo phát triển thương mại hóa điện ảnh số đồng thời giữ được sự bảo mật tài nguyên dữ liệu.

Cơ hội của các doanh nghiệp công nghệ trong phát triển hệ sinh thái điện ảnh số

Việt Nam đã rất thành công trong lĩnh vực gia công phát triển phần mềm, nhiều năm qua được quốc tế đánh giá là một điểm đến hàng đầu châu Á (Software Development Hub). Bước tiếp theo, cộng đồng doanh nghiệp trong lĩnh vực này kỳ vọng chung sức nâng tầm Việt Nam thành một trung tâm phát triển phần mềm và đổi mới sáng tạo của khu vực Đông Nam Á. Theo Báo cáo chỉ số GSLI của tổ chức AT Kearney 2019, Việt Nam xếp thứ 5 trên 50 quốc gia có nền tảng tốt về dịch vụ công nghệ thông tin. Những chỉ số này cho phép chúng ta hoàn toàn có thể lạc quan về một viễn cảnh Việt Nam trở thành điểm đến sáng tạo của khu vực, thông qua lĩnh vực điện ảnh số. Để lĩnh vực điện ảnh số Việt Nam là trọng tâm của công nghiệp văn hoá và Việt Nam trở thành điểm đến sáng tạo trong khu vực, cần ba yếu tố trụ cột:

  1. Chính sách hỗ trợ và khuyến khích từ chính phủ để triển khai chuyển đổi số lĩnh vực điện ảnh, thương mại hoá điện ảnh số.
  2. Khung đổi mới sáng tạo từ doanh nghiệp công nghệ số để gia nhập và phát triển hệ sinh thái điện ảnh số.
  3. Tinh thần sáng tạo từ mỗi người trong việc thụ hưởng, khai thác và phát triển sản phẩm của điện ảnh số.

Điện ảnh Việt Nam nằm vững khai thác tiềm năng, lợi thế của chuyển đổi số để thay đổi tư duy, hành động để tìm ra cách thức riêng chinh phục thị hiếu người xem, làm cho điện ảnh đến gần hơn với công chúng, tác động tích cực vào công chúng và chiếm được thị phần lớn hơn, tạo nguồn lực từng bước xây dựng nền điện ảnh Việt Nam hiện đại, nhân văn, mang bản sắc dân tộc… Trong hành trình phát triển hệ sinh thái điện ảnh số, doanh nghiệp công nghệ số đóng vai trò chủ đạo trong hành trình đưa Việt Nam trở thành quốc gia sáng tạo, chính phủ tạo bệ đỡ và chất xúc tác, còn giáo dục là nền tảng để tạo ra những con người có trí tuệ và khả năng để phát triển lĩnh vực điện ảnh số, phát triển kinh tế số trong lĩnh vực điện ảnh và là yếu tố quan trọng đưa công nghiệp văn hoá thành một ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam.

Hình ảnh chương trình

Truyền thông đưa tin

Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam: Chuyển đổi số trong lĩnh vực điện ảnh

Từ chính sách ra cuộc sống: Số hóa phim – Xu hướng chuyển đổi số lĩnh vực điện ảnh

Tổng hợp: Đức Hạnh